Truyen30h.Net

Âm mưu Hội Tam Hoàng 16+

Tàu Tumaxic 2

banamvungvinh

Ngày chủ nhật Lô dậy sớm, nhảy ra khỏi giường và kéo các rèm cửa sổ lên. Dường như chỉ chờ có phút ấy, các tia nắng liền ùa vào phòng, làm cho căn phòng tràn đầy ánh nắng vui tươi.

Lô đặt nước để pha cà-phê, rồi đi tắm. Cuối cùng, anh sẽ được ở bên Dung suốt ngày. Họ đã thỏa thuận là hôm nay sẽ cùng nhau đi Sentoza - hòn đảo thiên đường, nơi có những bãi tắm tuyệt vời và các món xatê ngon lành mà mấy anh đầu bếp người Malaixia nướng trên bếp than nhỏ ở giữa trời.

Lô không yêu Dung, anh chỉ có cảm tình với cô, có vậy thôi. Khác nào anh mến nhiều người phụ nữ mà anh thấy dễ chịu khi giao du với họ. Song trong nỗi lòng thầm kín của mình, anh thấy Dung không giống những người phụ nữ trước đây anh đã từng quan hệ và thái độ của anh đối với cô có phần nào hơi khác. Lô suy ngẫm trong vài giây, nhớ lại tối hôm Alan giới thiệu anh với Dung. Lúc đó bà Lâu đã giới thiệu anh là vị hôn phu rất có "tiềm lực", nhưng mọi người chỉ coi đó là lời nói đùa mà thôi.

- Thưa bác, bác dạy quá lời thế thôi ạ, - Lô lúng ba lúng búng. - Cô Dung đây đâu phải là dành cho việc bếp núc và nôi tã, còn thuê người làm, bà vú thì cháu lại không có tiền ạ.

Ăn sáng xong đã tám giờ, Dung hẹn chờ anh lúc chín giờ, nên Lô quyết định đi bách bộ dạo chơi.

Vòng qua chùa Silva, anh bước ra đường phố chính của thành phố - đường Orchard và vô tình anh bước chậm lại. Một đám rước linh đình của người Ấn Độ xuất hiện trên đường phố. Đám rước đi cùng hướng với Lô.

Dẫn đầu đám rước, với vẻ đường bệ, là mấy người đàn ông mình trần trùng trục. Mặt và mình họ vẽ đầy phẩm trắng. Trên vai mỗi người đặt một chiếc khung kim loại kê trên gối mềm màu da cam, có bốn trụ bắt thẳng đứng vào thành khung - hai ở phía trước, hai ở phía sau. Quanh trụ buộc những cánh cung cong vút, trên khoan nhiều lỗ nhỏ để luồn qua độ hai ba chục mũi tên gỗ đầu bằng kim loại nhọn hoắt chĩa thẳng vào mình mấy người vác thang, gây nên những vết thương nhỏ. Từ từ lăn bánh sau mấy người đàn ông là một chiếc xe ngựa chạm bạc trang hoàng đầy những dải băng lòe loẹt đủ mọi màu sắc, trên xe bày lễ vật; hoa quả, dừa và còn những gì nữa mà Lô không nhìn rõ. Rồi sau đấy mới đến một đoàn người mặc áo quần lộng lẫy, khắp mình trang hoàng đầy giấy trang kim, tràng hoa, kim tuyến, vàng và bạc. Tay họ cầm những trái dừa, chuông, những vỏ ốc biển lớn. Một số người lấy kim đâm vào người, số khác đi dép có đế đóng đinh chổng ngược lên, để mũi đinh nhọn hoắt đâm vào gan bàn chân. Đám đông vừa đi vừa hò la, nhảy múa và hát những bài thánh ca có kèm theo tiếng ầm ầm của trống, chiêng đồng và tiếng tù và bằng vỏ ốc biển lớn.

"Lễ Taipuxam!" - Lô đoán, khi nhớ đến tên một ngày lễ tôn giáo của Ấn Độ mà anh đã có lần nghe nói tới. Một người quen biết đã kể lại rằng hàng năm, vào ngày lễ Taipuxam, những người Ấn Độ mê tín tập hợp nhau thành các đoàn dài, rồi kéo đến chùa Settiarch ở đường Tenco. Tại đấy, trước tượng thần Xubramania, con cả của thần Siva, họ tự lấy kim, đinh, mũi tên nhọn đâm vào người mình, đập dừa ra rồi đốt. Đây được coi là một sự biểu lộ lòng trung thành với thần Xubramania. Trước con mắt của người Ấn Độ ngoan đạo, thần Xubramania là hiện thân của phẩm hạnh, sức mạnh, trẻ tuổi, lòng dũng cảm, sắc đẹp và có trời biết của những gì gì nữa. Theo mê tín, ai đến chùa Settiarch thì được Xubramania phù hộ tránh khỏi mọi nỗi gian truân và ban cho những phẩm chất của mình.

Viên thanh tra ngắm nhìn cảnh tượng rực rỡ nhưng sau đó anh quyết định bỏ đi, vì tiếng ngân vang của chuông, tiếng ầm ầm của trống, chiêng và tù và do những người tôn sùng Xubramania đã phồng mang trợn mắt thổi vào những con ốc biển làm anh đinh tai nhức óc và bứt rứt khó chịu.

- Chào ông thanh tra, - một giọng oang oang bỗng vang lên ngay sát tai Lô. Anh có cảm giác như đích thân con trai của thần Siva đang chào anh. Anh quay đầu lại và trông thấy một người Ấn Độ quen biết. Ông ta làm việc ở bên cảnh sát bờ biển. Lô chợt nhớ ra rằng tuần qua anh vẫn chưa đảo đến chỗ "người nhái", nên tâm trạng sảng khoái của anh tựa như đã bị một bàn tay nào đó xóa sạch, vì chắc hẳn ngày mai thể nào Alan cũng bực mình về sự rù rờ như vậy của viên thanh tra.

Người Ấn Độ lực lưỡng không phải là đang bước đi, mà là đang bập bềnh trôi giữa đám người mê tín, mặt mày ông ta hớn hở, ông ta đinh ninh rằng nếu ông ta đập vỡ quả dừa ở chùa Settiarch, thì vị thần hào phóng sẽ ban cho một cái gì đấy. Lô mỉm cười nghĩ rằng nếu ông cảnh sát này đến gặp Xubramania để xin được ban vẻ đẹp thì thật là uổng công. Vị con trai của Siva, tuy là thánh thần, nhưng vị tất đã có thể giúp được ông này một điều gì đấy, vì phải tốn khá nhiều thời gian họa may mới phù phép sửa được khuôn mặt ngựa dài ngoằng của ông ta. Còn những người ao ước được tiếp xúc với các đức hạnh của Xubramania thì nhiều tới mức đoàn người xếp hàng chắc là sẽ phải than thân trách phận ước mong sớm được thánh thần ban phước lành.

Lô đưa mắt nhìn lại một lần nữa người bạn đồng hành. Kể thấy cái nhà ông cảnh sát không mặc quân phục, mình trần trùng trục, một tay cầm một quả dừa dớ dẩn, tay kia cầm một chiếc kim bạc dài chốc chốc lại trích vào ngực, vào sườn, vào lưng mình thì cũng lạ thật đấy.

- Chào ông, - mãi sau Lô mới lên tiếng đáp và đưa mắt tìm một ngõ hẻm để rẽ vào đấy.

Chẳng qua Lô biết rõ ràng không thể nào bứt khỏi viên cảnh sát, ông ta bấu lấy người quen và người lạ không khác gì bột hòa chưa nhuyễn bám vào tay, và mau mồm miệng như hàng trăm bà buôn thúng bán mẹt ở ngoài chợ vào hôm chủ nhật.

- Thưa ông thanh tra, ông đang tìm một người nào đó, phải không?

- Đúng, - Lô cộc lốc buông lời khi đã phát hiện ra cái ngõ cứu tinh nằm ở trước mặt.

- Thưa ông, sức khỏe của ông độ này thế nào? - Viên cảnh sát mê tín quan tâm hỏi, rõ ràng là ông ta hy vọng rằng Lô sẽ nhã nhặn đáp để ông ta được dịp tha hồ mở máy.

"Nếu Xubramania còn cho phép nhà anh quay trở lại chùa Settiarch thì thần kinh vị thần chắc hẳn vững chắc như sắt thép", - Lô đôn hậu nghĩ, rồi đáp cho qua loa xong chuyện.

- Cảm ơn, khỏe.

Họ đi bên nhau im lặng trong vài giây.

- Chúng tôi đến chùa Settiarch, - người Ấn Độ thấy cần phải thông báo với viên thanh tra và lắc lắc quả dừa - cầu thần Xubramania ban cho hạnh phúc.

- Thần giúp ông chứ? - Lô hỏi.

- Giúp chứ! Nhà cháu có biết một anh chàng nhờ phép mầu nên mới sống được đấy.

- Chẳng nhẽ lại do thần Xubramania giúp? - Lô không nhịn được cười.

- Vâng, chính Ngài đấy, - viên cảnh sát đáp, giọng quả quyết, - còn ai vào đấy nữa.

- Chẳng hiểu ai đã nghĩ ra cái chuyện ấy nhỉ? Thôi được, nếu vậy cầu mong Đức Xubramania ban phước cho cả ông nữa.

Lô rời vỉa hè định sang đường.

- Đúng là Đức Xubramania đã phù hộ đấy! - người Ấn Độ nói to với theo, chắc sợ rằng chưa thuyết phục được viên thanh tra tin vào sức mạnh của vị con cả thần Siva. - Còn ai vào đây nữa? Tàu bị đắm, thế mà anh ta thoát chết đấy.

- Tàu nào? - Lô quay ngoắt lại, anh chợt nhớ rằng trong nửa năm qua chỉ mỗi tàu Tumaxic bị đắm thôi.

- Sao? Tàu nào à? Tàu Tumaxic. Lẽ nào ông không nghe nói hay sao?

Người sùng bái Xubramania hớn hở đáp, khi giọng nói của viên thanh tra để lộ vẻ quan tâm săn đón.

Lô quay trở lại vỉa hè. Cho rằng Đức Xubramania lại có thêm một đệ tử nữa, nên viên cảnh sát quyết định là cứ nêu chứng cớ rành rành thì sẽ gây tác động đối với ông ta tốt hơn bất kỳ lời thuyết giáo nào.

- Dạ, chuyện đâu có chuyện lạ đời, - người Ấn Độ bắt đầu thích thú lên tiếng triết lý, - tàu bị chìm nghỉm, thế mà thằng cha ấy lại sống sót. Trăm sự là nhờ Đức Xubramania đấy ạ. Ngài có thể làm được tất cả mọi chuyện. Có điều là phải tôn kính Ngài. Đấy, nếu không chăm đi lễ chùa Settiarch...

- Anh chàng ấy làm gì? - Lô hững hờ ngắt lời người tiếp chuyện.

- Dạ, thợ máy. Tên là Xungai. Không cùng tôn giáo với chúng tôi. Anh ta là người Inđônêxia. Anh ta thường đến chùa Settiarch, chẳng là anh ta đã quyết định theo đạo của chúng tôi và thế là gặp may ngay. Mọi người chết đuối hết, còn mỗi anh ta sống sót. Tin vào thánh thần nào cũng thế thôi, có phải không ạ? Chủ yếu là Ngài phù hộ...

- Anh ta được cứu thoát, có đúng thế không nào?

- Sao lại cứu thoát là thế nào? Anh ta không đi trên cái chuyến đáng nguyền rủa ấy. Bị đuổi ngay trước khi tàu nhổ neo đi Thái Lan. Anh ta uống dữ quá. Nếu không bị đuổi thì đã làm mồi cho cá như những người kia rồi. Thất nghiệp, nhưng sống sót là được. Rồi ra sẽ kiếm được việc. Đức Xubramania, người đó được Ngài cứu giúp. Đúng thế đấy, - người Ấn Độ kết luận, vẻ hãnh diện, tựa hồ chính ông ta là con trai Siva và chính ông ta đã khuyên Xungai uống rượu nhiều hơn nữa để được sống sót.

Lô căng óc cố nhớ tên họ những người nằm trong danh sách đoàn thủy thủ mà người ta đã đem tới cho anh cùng với tài liệu điều tra vụ đắm tàu. Nhưng vì anh chỉ đưa mắt đảo qua bản danh sách, nên chẳng nhớ gì cả.

- Thế ông có thấy cái anh chàng... Xungai ấy không?

- Đúng, đúng, tên anh ta là Xungai, - người Ấn Độ gật đầu. - Tôi thì tôi không được gặp, nhưng người khác thấy.

- Lâu chưa?

- Hôm kia, hôm kìa gì đó.

- Thấy ở đâu? - Viên thanh tra hỏi để phòng xa.

- Ở ngoài cảng. Ai đã trông thấy anh ta? Chịu, không tài nào nhớ ra. Người ta thấy anh ta say mèm. Chắc hắn uống vì vui thôi. Chuyện đâu có chuyện lạ đời. Mọi người chết đuối cả, mỗi anh ta sống sót. Ai đã trông thấy anh chàng nhỉ?

Người Ấn Độ bối rối chặc lưỡi.

- Ấy là vui câu chuyện hỏi thế thôi... chào ông. - Lô bảo,

- Thế chẳng nhẽ... ông không đi lễ chùa Settiarch với chúng tôi à? - Viên cảnh sát thất vọng hỏi.

- Để lần sau vậy nhé, - Lô mỉm cười.

"Ngày mai phải đi tìm anh chàng Xungai ấy mới được, - viên thanh tra thầm nghĩ, - Dù anh chàng không đi chuyến cuối cùng, dẫu sao anh ta cũng có thể kể cho nghe một điều lý thú nào đấy về đoàn thủy thủ".

- Chắc Xungai sẽ đi lễ chùa Settiarch, - viên cảnh sát chưa chịu yên, - anh ta phải tạ ơn Đức Xubramania. Một khi Đức Xubramania đã cứu mạng thì anh ta không thể không đến lễ tạ được. Vào một ngày lễ như hôm nay.

- Thôi được, thôi được, để lần sau vậy, - Lô lúng túng đáp và sang đường.

Anh bước vài bước, rồi dừng lại. Trong tiềm thức anh lóe lên một ý gì đó buộc anh đưa mắt nhìn đồng hồ. Chẳng có ý gì đáng được bận tâm suy nghĩ cả, song anh vẫn thấy nhức nhối thế nào ấy. Còn hơn nửa tiếng nữa mới đến giờ gặp Dung. Không buồn nhìn xuống đường, anh giơ tay lên vẫy xe tắc-xi.

Động tác này quá thừa. Một chiếc xe Peugeot tồi tàn đã đỗ hơi chênh chếch vỉa hè gần chỗ Lô. Do có tài tiên đoán trăm bận trăm đúng ai sẽ đi xe, nên bác lái xe người Malaixia đã đứng tuổi kiên nhẫn chờ cho đến khi Lô không thể không gọi xe tắc-xi được.

Về đến văn phòng, viên thanh tra lên thẳng ngay phòng làm việc của mình và lôi ở trong két sắt ra tập tài liệu nhận của bên cảnh sát bờ biển. Anh vội giở tập tài liệu, tìm bản danh sách đoàn thủy thủ tàu Tumaxic và đọc lướt một lượt. Mấy phút sau anh làu bàu:

- Quái quỷ thật! Dớ dẩn quá!

Thợ máy Xungai đứng tên thứ mười trong bản danh sách. Lô ngồi xuống ghế, tay vẫn cầm bản danh sách. Bị chặn lại ở ngoài phố thế kể cũng hay đấy! Ký ức thị giác như một chiếc máy ảnh vô hình, tái hiện những gì đã ghi lại được và rồi chuyển đến các tế bào dự trữ nằm ở một nơi nào đó trên não.

"Sai sót ở đâu nhỉ? - Lô suy luận. - Trong bản danh sách hay lời nói của anh chàng cảnh sát? Nếu thợ máy đi chuyến cuối thì chắc chắn là đã chết đuối rồi, chẳng ai thấy nữa. Còn nếu thực sự bị đuổi trước khi tàu nhổ neo đi Thái Lan thì trong bản danh sách phải không có tên anh ta chứ. Mình đã chẳng bảo là cho xin bản danh sách đoàn thủy thủ đi chuyến cuối cùng cơ mà. Ở công ty người ta đã quên gạch tên à? Thì người Ấn Độ đã chẳng bảo là anh chàng thợ máy đã bị đuổi ngay trước khi tàu nhổ neo đó sao. Biết đâu cái anh chàng ba hoa đó đã nhầm lẫn và người Inđônêxia kia không bị đuổi thì sao? Nhưng trong trường hợp như vậy, tay thợ máy làm sao lại có mặt tại Xingapo sau khi tàu bị đắm? Trăm dặm chứ ít à. Dông tố nữa..."

Lô thu dọn tài liệu, xếp vào két sắt, gọi điện báo trực ban bố trí xe và rời khỏi văn phòng. Khi anh tới rạp chiếu bóng Lido thì đã chín giờ bảy phút. Dung sốt ruột đi đi lại lại ở mép hè. Nhìn nét mặt cô cũng đủ rõ là cô không quen chờ đợi. Thoáng thấy Lô, cô giận dỗi nói:

- Anh Lô, chúng ta hẹn nhau chín giờ cơ mà.

- Xin lỗi Dung, Lô có việc bận một chút.

- Chủ nhật mà cũng bận à?!

Lô vung tay.

- Giá như người ta khẩn trương hơn nữa thì cũng chẳng đến nỗi đâu. Thôi được rồi, ta đi thôi. Kẻo Lô bỏ lỡ mất ánh nắng ban mai. Phơi nắng lúc này tốt lắm đấy.

Dung sửa lại chiếc túi màu vàng đeo nơi vai và đi đến bên chiếc xe tắc-xi đỗ cách đấy vài mét. Cô bỗng nhận ra rằng chiếc xe mà viên thanh tra vừa phóng đến, vẫn đậu nguyên tại chỗ.

- Thế nào nào... ta đi xe này à? Xe có máy điều hòa không? Anh Lô, anh thật là tốt bụng! Dung không tài nào chịu nổi những chiếc xe tắc-xi bẩn kinh khủng đó. Trong xe đến là chật và nóng... - cô gái líu lo nói.

Lô đưa mắt nhìn với vẻ đầy thương cảm thân hình thon thả của Dung. Cô mặc áo thun ngắn tay màu xanh lá mạ và quần vàng đồng màu với túi.

- Dung hiểu cho, - Lô lưỡng lự nói, - hoàn cảnh...

- Hiểu rồi! - Dung gay gắt ngắt lời anh và cau mày. - Kể cũng hay, cái gì cũng đổ... do hoàn cảnh!

Cô gái lắc mạnh mái tóc đen, dày, quay ngắt người lại và bỏ đi. Lô buồn rầu nhìn theo cô.

Bến cảng ồn ào ầm ĩ với tiếng các cần cẩu kêu cót két, tiếng hò hét, giọng khàn khàn "hạ xuống", tiếng chửi rủa với một vẻ đầy thích thú bằng trên chục ngôn ngữ khác nhau. Biển uể oải đung đưa trên sóng những chiếc thuyền của người Hoa căng buồm đủ mọi màu sắc, những chiếc thuyền nan mỏng manh trên lợp phên, đồng thời cũng là nhà của dân chài, mấy xuồng hải quan nhỏ đang đậu ở bến.

Lô hỏi thăm xem tàu Tumaxic thường neo lại ở chỗ nào, rồi đi đến đấy.

Một người Malaixia râu ria không cạo, mặc chiếc áo sơ-mi bạc màu đã sờn rách và quần soóc vá đang ngồi xổm ở ngay bên mép bến. Nói cho đúng ra thì ông ta đang mặc quần đùi, chứ không phải quần soóc. Ông ta cầm trong tay mẩu thuốc lá đã tắt ngóm và mắt đăm chiêu nhìn làn nước.

- Này, ông bạn! - Lô gọi người Malaixia.

- Dạ, tuan, - ông ta đứng dậy và đáp.

- Này, ông bạn, tôi muốn tìm cho tàu của tôi một thợ máy. Có lẽ ông bạn biết tất cả mọi người ở đây đấy. Ông có thể giới thiệu với tôi một người được không?

- Thợ máy thì khối ra đấy... - người Malaixia cất giọng khàn khàn nói.

- Tôi cần một thợ máy giỏi cơ.

- Người giỏi có mấy đâu, - ông người Malaixia chán nản kết luận. - Thợ giỏi thì đời nào lại chịu thất nghiệp.

Ông ta chậm rãi nhai đầu mẩu thuốc lá ở trong mồm, rồi nhổ phì phì.

- Có một thời tôi cũng là thợ máy. Song chuyện đó kể ra cũng lâu rồi... - Đồng tử của người Malaixia từ từ đảo lên phía trên. Rõ ràng là ông ta đang muốn gợi lại chuyện ngày xửa ngày xưa. Lô chẳng muốn nghe chuyện đó chút nào.

- Này, ông bạn, - Lô vội nói, không để cho ông ta đắm chìm trong những chuyện xa xưa của mình,

- Nghe đâu một thợ giỏi vừa bị đuổi ra khỏi tàu Tumaxic, không biết đúng không. Ngay trước khi tàu nhổ neo đi Thái Lan. Ông bạn có nghe nói không? Một người Nhật Bản hay người Philippin gì đấy. Hay là một người mang quốc tịch nào khác nữa. Tôi không biết rõ lắm. Nhưng nghe nói đấy là một thợ giỏi.

- Sao lại không nghe? Nghe quá đi chứ!

Người Malaixia nhìn mẩu thuốc lá của mình, vẻ buồn rầu ra mặt, cố làm bộ để viên thanh tra rõ rằng nếu được mời một điếu thuốc ngon thì cũng tốt thôi. Lô rút bao Marlboro ở trong túi ra. Cặp mắt lờ đờ của người Malaixia sinh động hẳn lên. Ông ta chùi tay phải vào áo, ngây thơ cho rằng như vậy tay sẽ sạch hơn, sau đó, thận trọng rút một điếu, ngắm nhìn nó trong giây lát, rồi mới đưa lên cái miệng móm mém không còn răng nữa. Ông ta bỏ cẩn thận mẩu thuốc hút dở vào túi áo nơi ngực. Lô bật lửa. Người Malaixia rít mạnh một hơi làm cho hai má tưởng chừng như áp sát vào nhau. Ông ta vừa rít vừa lắc đầu, vẻ như biết ơn và rồi ho sặc sụa. Lô kiên trì đợi.

- Sao lại không nghe? - Ho chán rồi cuối cùng người Malaixia mới lên tiếng lại.

- Trên tàu Tumaxic có một người như vậy. Song không phải là người Nhật Bản. Người Nhật không làm thợ giỏi được. Họ làm thủy thủ trưởng thì khá đấy. Còn thợ máy, xoàng thôi. Còn người mà tuan chỉ là người Inđônêxia. Người Inđônêxia hiểu rất rõ về máy móc. Anh chàng ấy là người am hiểu đấy. Am hiểu rất tường tận. Tên anh ta là Xungai.

- Thế tìm anh ta ở đâu?

- Chẳng tìm đâu ra nữa. Anh ta bị chết đuối rồi. Chết đuối cùng với mọi người khi tàu Tumaxic chìm nghỉm. Họ đi từ Thái Lan, nghĩa là, mới rời bến, thế mà...

- Chết đuối là thế nào? Anh ta bị đuổi trước khi tàu rời bến cơ mà.

- Đuổi, thì quả là có bị đuổi. Đúng đấy!

Rít thêm vài hơi nữa, người Malaixia ngồi xổm xuống và khẽ dụi mẩu thuốc đang hút dở xuống mặt đường. Sau đó, ông ta từ từ đứng lên và cũng từ từ bỏ nó vào túi áo ngực.

- Thế này này. Tại sao anh ta bị đuổi à? Nốc rượu cho lắm vào. Người bé loắt choắt thế mà uống thì cứ ừng ực ấy! Thế đấy! Anh ta bị đuổi một hoặc hai ngày trước khi tàu rời bến. Còn tàu Tumaxic ra khơi ra sao, nghe đâu người ta không tìm được thợ máy. Thợ máy vô thiên lủng, nhưng thợ giỏi thì bói bảy ngày cũng chẳng thấy. Họ đành phải thu nhận lại anh chàng. Đúng ngay vào hôm ấy.

- Ông bạn không nhầm đấy chứ?

- Hà, hà, - Người Malaixia rống lên, - mắt tôi nhờ đức Alla nhìn hãy còn rõ.

- Tiếc thật! Nghe nói anh ta là thợ máy cừ.

- Cừ đấy, - người Malaixia tán thành, - có sao nói vậy, tuan ạ, tuan cứ thử đi dọc bến cảng xem, biết đâu chẳng tìm được một người.

- Thế anh ta không thể thoát được à? - Lô nhìn chăm chăm nét mặt người đang tiếp chuyện và hỏi vội.

Người kia lắc đầu.

- Nếu vậy anh ta đã lại đây rồi. Hoặc ra ngoài ụ tàu. Chẳng là anh ta ngủ đêm ở đấy mà. Nhà cửa chẳng có.

Lô lại chìa cho người Malaixia điếu thuốc nữa. Ông ta vái chào và nói:

- Xin đức Alla phù hộ tuan.

Đến Sentoza bây giờ cũng vô ích, Lô buồn bã thầm nghĩ khi nhớ lại vẻ mặt giận dỗi của Dung. Có lẽ anh chàng Ấn Độ nhầm lẫn.

Thế nhưng đã mất đứt ngày chủ nhật rồi, nên Lô quyết định tiến hành công việc đến cùng. Anh lần ra ụ tàu.

Ngoài các ụ tàu, Lô mất gần hai tiếng đồng hồ tìm kiếm bác công nhân khuân vác quen biết. Bác ta làm việc ở đây khoảng mười lăm năm, nhẵn mặt mọi người và đã nhiều lần giúp viên thanh tra được khối việc hữu ích.

Mấy công nhân khuân vác đang quây quần bên đống cao su, ồn ào tranh cãi với nhau về một chuyện gì đấy. Cuộc tranh cãi đang ở lúc sôi nổi nhất và chắc là kéo dài còn lâu vì chẳng ai chịu nghe ai, ai cũng cố mà nói và vung tay múa chân. Trong đám cãi nhau ấy có cả người quen của viên thanh tra.

- "Quốc vương" ơi! - Lô gọi.

Không ai quay lại. Mấy người công nhân khuân vác cứ uổng công vô ích cố bắt ép người khác phải nghe mình nói.

- "Quốc vương" ơi! - Lô gọi to hơn.

Vẫn không có một phản ứng gì cả.

Lô tiến lại gần mấy bác công nhân khuân vác và vỗ vào vai người quen của mình.

- "Quốc vương", bác sao thế, không nghe thấy tôi gọi à? - Anh hỏi, giọng bất bình.

Một người Malaixia lùn tịt quay lại, khuôn mặt có gò má cao nhăn nheo trong một nụ cười đôn hậu và tách ra khỏi đám đông. Đám cãi nhau thậm chí không hề nhận thấy điều ấy. Họ vẫn đua nhau nói liến thoắng và chẳng ai chịu nghe ai.

Người Malaixia khoảng độ năm chục tuổi, song trông lão - ở phương Đông điều này là thông thường - trẻ hơn tới mười tuổi. Tên lão nghe đến là lạ và cổ lỗ, Vương Akhmat. Có người đã bảo rằng lão trùng tên với người cầm quyền của Malakki hồi thế kỷ trước. Mát lòng mát dạ về sự trùng tên này, đứng ở ngã ba đầu phố nào lão cũng huênh hoang về chuyện đó cho tới lúc, cuối cùng người ta đã ghép cho lão một tên lóng "Quốc vương". Lão không giận và dần dà ngày một ngày hai lão quen với tên gọi đùa tới mức coi cái tên Vương của mình là tên người khác.

- Tuan thanh tra, cầu đức Alla phù hộ tuan, - lão nói, - tuan có được khỏe không?

- Cảm ơn "Quốc vương", khỏe. Thế còn lão?

- Đức Alla công bằng lắm, - Vương nói và giơ hai tay lên trời. - Có công ăn việc làm. Có sức khỏe. Có thể sống được. Tuan thanh tra, sao lâu nay tôi không thấy tuan đâu cả.

- Nhớ à? - Lô cười. - "Quốc vương" này, tôi cần sự hỗ trợ của lão.

- Tuan lại nhạo báng tôi rồi, - Vương đáp, vẻ hể hả ra mặt. - Tuan thanh tra là một người có tầm cỡ. "Quốc vương" là tép riu. "Quốc vương" thấp hèn như hạt lúa. Đồ tép riu đây có thể giúp gì người có tầm cỡ ạ?

- Thôi, thôi, đủ rồi, đừng giả vờ giả vịt nữa, - Lô cau mày. - Tôi cần tìm một người. Nghe đâu người ta đã bắt gặp người đó ở đây.

Vương đưa mắt nhìn chỗ khác.

- Tôi không biết người tuan thanh tra đang tìm kiếm. Chẳng hay có phải là một người Inđônêxia ở trên con tàu mới bị đắm không?

- Lão trông thấy người đó à?

- Không, tuan thanh tra ạ, - Vương đáp giọng hồn nhiên chất phác.

- Lão nói dối! - Lô thét lên. - Do đâu lão biết rằng ta tìm người ấy?! Nói đi xem nào.

- "Quốc vương" không bao giờ nói dối cả, - Vương nổi cáu. - "Quốc vương" là một con người trung thực.

- Thôi được, được rồi, - Lô hơi dịu giọng, - thế lão kể ta nghe xem lão biết gì nào.

Vương khoái chí gãi sườn qua lần vải áo.

- Ai cũng rõ là tàu Tumaxic đã bị đắm. Còn người Inđônêxia thì thiên hạ xô đến hỏi. "Quốc vương" là đồ tép riu, óc của lão nhỏ bé như óc cá. Song lão biết rằng khi nào thiên hạ hỏi thì thiên hạ biết rõ mình hỏi để làm gì. Chẳng ai lại đi hỏi han về một người, khi người đó quả là đã bị chết đuối rồi.

- Ai hỏi về người đó?

- Có hai người đã tới đây. Mới đầu họ cứ lừ lừ đi đi lại lại dọc các ụ tàu và ngó ngó nghiêng nghiêng. Tôi nhận ra ngay họ là những kẻ lạ mặt. Những người lạ mặt đi đi lại lại ở các ụ tàu để làm gì nhỉ? Nếu có công có việc, biết ngay thôi mà. Đằng này họ đi lại, ngó nghiêng. Tôi liền nghĩ ngay là họ tìm một người nào đó. Sau đấy họ dò hỏi.

- Hỏi lão?

- Không, hỏi Pun. Tôi tò mò muốn biết xem chuyện gì. Sau đấy, tôi đến bên Pun và hỏi xem hai người vừa rồi cần gì vậy. Pun đáp họ tìm một người Inđônêxia nào đấy, nghe đâu là người của tàu Tumaxic. Họ bảo là người của cảnh sát. Pun mới làm việc ở các ụ, nên chẳng biết ai vào ai cả. Tôi liền đoán ngay, nếu là cảnh sát thì đã biết rõ tàu Tumaxic bị đắm rồi, họ còn tìm Xungai để làm gì? Không, tôi nghĩ, các ngài không phải là người của cảnh sát...

- Thế tại sao lão không báo cho cơ quan chuyên trách?

- Ôi, ôi, tuan thanh tra ơi, - lão người Malaixia lắc đầu, - bây giờ cuộc sống phải như thế này, tốt hơn hết là không nghe, không thấy gì cả.

- Thế ra lão sợ à? - Lô giễu cợt hỏi.

- Sợ đến tận bây giờ ấy chứ, tuan thanh tra. Tôi chỉ kể lại cho mỗi tuan nghe thôi, còn người khác thì xin đủ đấy ạ. Chẳng là chúng ta là những người quen biết nhau từ lâu rồi mà.. Mới lại tôi biết rằng tuan thanh tra là một người hào hiệp, tuan thanh tra...

- Thôi được rồi đấy. Họ đến đây đã lâu chưa?

- Mấy người kia ấy à? Một tuần đổ lại. Mới hôm kia tôi còn thấy họ. Lại đi đi lại lại, ngó ngó nghiêng nghiêng. Mặt mũi trông đến ác ôn. Chính vì vậy tôi cho rằng có lẽ tuan thanh tra cũng tìm kiếm Xungai. Vấn đề này xem ra đen tối thế nào ấy...

"Ra thế đấy, viên thanh tra thầm nhận xét, thiên hạ tìm kiếm người Inđônêxia đã tuần nay và không tìm ra. Nghĩa là, anh ta quả thực đã thoát thân và biết một chuyện gì đấy".

- Đích thân lão có biết anh ta không?

- Xungai ấy à? Đôi chút thôi. Thỉnh thoảng anh ta có ngủ lại đấy. Kiếm thêm chút đỉnh để tiêu xài mà. Mười lăm năm nay rồi, tôi còn lạ gì ai nữa!

- Anh ta người thế nào?

- Củ mỉ cù mì. Cậy không ra lời. Thật ra, trò chuyện với anh ta chán ớn đi được. Anh ta ấm a ấm ớ, học đòi nói theo kiểu chúng tôi, nhưng tập tọng thế thôi. Nghe cứ như đấm vào tai ấy. Anh ta thuộc loại thỏ đế. Sợ đủ điều. Mắt lúc nào cũng thất sắc. Vô gia cư, vô gia đình... Ngủ ở đây.

- Nghe đâu, một con sâu rượu thì phải?

Người Malaixia huýt một tiếng sáo.

- Ôi, ôi, tuan thanh tra ơi. Uống thì còn phải nói, có lẽ nếu bật que diêm lên gí vào mồm anh ta thì cả người anh ta sẽ nổ tung ngay. Phúc bảy đời nhà anh ta không theo đạo của chúng tôi. Chứ nếu không ấy à, đức Mahomet sẽ trị cho bạc đầu...

Là người không rượu chè, đúng với tư cách của một môn đệ chân chính theo đạo Hồi, Vương cau mày hốt hoảng tới mức tựa hồ đức Mahomet đang trừng phạt Xungai về tội rượu chè, còn lão, Vương, tình cờ lại có mặt ở bên cạnh.

- Anh ta không bị đuổi khỏi tàu Tumaxic, đúng không? - Lô hỏi.

- Mỗi người một phách. Chẳng còn hiểu đầu đuôi xuôi ngược ra sao cả. Lúc thì bảo bị đuổi, lúc thì bảo không bị đuổi. Biết sao, lão nói vậy. Nếu bị đuổi, hắn ta đã xuất hiện ở ngoài các ụ tàu từ lâu rồi. Không, ở đây có điều trắng đen chưa rõ...

- Thế tìm anh ta ở đâu, lão biết không? - Lô ngắt lời Vương.

"Quốc vương" lắc đầu.

- Nghĩ xem nào.

- Có đức Alla chứng giám, tuan thanh tra ạ, lẽ nào "Quốc vương" lại đánh lừa tuan bao giờ? "Quốc vương" là một người trung thực.

- Thế nếu tìm, liệu thấy không?

Vương chặc lưỡi.

- Các ụ tàu khá rộng. Anh ta khi ngủ nơi này, lúc nơi khác. Hẳn là bây giờ thì nằm in thin thít như chuột rúc hang. Hẳn là anh ta biết rằng người ta đang lùng... Nếu không đã ló mặt ra rồi. Còn trú ở đâu, có đức Alla mới biết được. Tìm, tại sao lại không tìm nhỉ? Nhưng ai sẽ làm việc cho? Chủ thì chẳng đời nào dại gì trả tiền công cho rồi. Phải nuôi vợ. Phải nuôi con cái chứ, tuan thanh tra biết rằng "Quốc vương" luôn luôn sẵn lòng giúp thôi. Chỉ có điều...

Lô rút trong túi ra hai chục đô-la. Vương hau háu nhìn chỗ tiền.

- Lão đi sục sạo đi, - Lô bảo. - Nếu có chuyện gì nhớ gọi điện đấy. Còn nhớ số điện chứ?

- Tuan thanh tra nói gì lạ vậy, quên sao được.

- Tìm ra sẽ còn được nhận nữa.

"Quốc Vương" đưa hai tay ra đón tiền và vái tạ.

- Tôi vẫn thường bảo tuan thanh tra là người xởi lởi, - lão làu bàu, - "Quốc vương" là hạng tép riu, nhưng lão lúc nào cũng sẵn lòng giúp tuan thanh tra. Đức Alla sẽ ban thưởng cho tuan, thưa tuan!

- Thôi đủ rồi, - Lô bảo. - Đi đi! Và nhớ là phải gọi điện ngay đấy nhé. Rõ chưa nào?

- Dạ, thưa tuan thanh tra, quên sao được ạ. "Quốc vương" luôn luôn ghi nhớ mọi điều, tuan thanh tra là một người tốt, nghĩa là "Quốc vương" luôn luôn sẵn lòng giúp tuan thanh tra.

Lão người Malaixia vừa bước giật lùi, vừa liến láu cảm ơn rối rít. Lô quay trở lại và lững thững bước trở ra.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Net