Truyen30h.Net

Tài Liệu Văn Nghị Luận Xã Hội Và Lí Luận Văn Học

Văn 12: Việt Bắc

DPPhuongdinh


🌱 I. MỞ BÀI:

"Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"

Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Sự kiện này cũng đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ viết nên những tác phẩm bất hủ, mang tầm vóc lịch sử, mang giá trị thời đại sâu sắc. "Việt Bắc" của Tố Hữu cũng được thai nghén trong bối cảnh hào hùng của thắng lợi này. Tố Hữu – cánh chim đầu đàn của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lí tưởng, lẽ sống của con người Việt Nam hiện đại, nhưng vẫn thấm đẫm chất dân tộc, truyền thống. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, một thi phẩm xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa là khúc tình ca nghĩa tình Cách mạng Việt Nam.

🌱 II. THÂN BÀI:

1. 𝑪𝒂́𝒄𝒉 𝒅𝒂̂̃𝒏 𝒅𝒂̆́𝒕, 𝒌𝒉𝒂́𝒊 𝒒𝒖𝒂́𝒕:

Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.

"Việt Bắc" được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ.

Đã nhiều lần ta bắt gặp trong văn chương cuộc chia tay đầy luyến lưu, bịn rịn. Lần Thúy Kiều tiễn Thúc Sinh "muôn dặm một mình xa xôi" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du để lại lòng người nỗi xót xa, day dứt. Cuộc "tống biệt" trong khúc "Tống biệt hành" của Thâm Tâm gợi nỗi buồn man mác và sự quyết tâm trong tim chàng thanh niên ra đi tìm lí tưởng cuộc sống. Chia tay với người đi, kẻ ở đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi sĩ xưa nay.

"Việt Bắc" cũng tái hiện lại một cuộc chia tay. Đây là cuộc biệt li giữa những người đã từng gắn bó "mười lăm năm ấy", nay cùng ôn lại những kỉ niệm thời kháng chiến, khẳng định đạo lí sống ân nghĩa, ân tình, cùng hướng về tương lại. Diễn biến tâm trạng của kẻ ở, người đi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, có lời hỏi, lời đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng.

Chuyện ân tình Cách mạng đã được Tố Hữu thể hiện thật khéo léo như chuyện tình yêu, đôi lứa. Hỏi và đáp ở đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật để khơi gợi, bộc lộ tâm tư, tình cảm của tác giả, của những người kháng chiến.

2. 𝑪𝒂̉𝒎 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒏 𝒕𝒖̛̀𝒏𝒈 đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛ 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒃𝒂̀𝒊 𝒕𝒉𝒐̛ 𝑽𝒊𝒆̣̂𝒕 𝑩𝒂̆́𝒄:

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛: "𝑴𝒊̀𝒏𝒉 𝒗𝒆̂̀ 𝒎𝒊̀𝒏𝒉 𝒄𝒐́ 𝒏𝒉𝒐̛́ 𝒕𝒂...................𝑪𝒂̂̀𝒎 𝒕𝒂𝒚 𝒏𝒉𝒂𝒖 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒏𝒐́𝒊 𝒈𝒊̀ 𝒉𝒐̂𝒎 𝒏𝒂𝒚"

Ngay từ những dòng thơ mở đầu, Tố Hữu đã mở ra khung cảnh chia li đầy xót xa, bịn rịn. Tâm trạng kẻ ở (đồng bào Việt Bắc) và người đi (người cán bộ về xuôi) từ đó cũng được bộc lộ thật cụ thể, tinh tế.

Những dòng thơ trữ tình êm ái đưa người đọc vào một không gian thơ đặc sắc. Bốn dòng thơ đầu là lời ướm hỏi của người ở lại (đồng bào Việt Bắc). Khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, một mầm sống xanh non đang dần nhú lên trên quê hương Việt Bắc, đồng bào miền núi nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng trước, gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó trong "mười lăm năm ấy".

"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"

Tâm trạng băn khoăn trở đi trở lại như một niềm day dứt trong lòng người ở lại. Một câu hỏi gợi nhắc về thời gian: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"- "mười lăm năm ấy" là một quá trình gắn bó dài lâu, được tính từ khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, hòa bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa Cách mạng vững chắc. Trong khoảng thời gian ấy, biết bao ân tình sâu nặng mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho Cách mạng và kháng chiến, trong giây phút chia tay, kỉ niệm gắn bó suốt mười lăm năm ấy hiện về với bao điều muốn nói nhưng cũng không thể nào nói hết.

Một câu hỏi gợi nhắc về không gian: "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn". Cây, núi, sông, nguồn gợi nhớ một vùng căn cứ địa Cách mạng đã từng chở che, bảo bọc cho con người, đó là không gian của nguồn cội, nghĩa tình. Làm sao không khỏi xốn xang khi nghe được những lời thiết tha pha lẫn chút lo âu của người Việt Bắc: "mình có nhớ ta", "mình có nhớ không"? "Mình", cái tiếng ấy sao thật dịu dàng, ngọt ngào và trĩu nặng yêu thương đến lạ. Cái tình của bài thơ được bộc lộ từ chính cách xưng hô "mình – ta".

Dường như trong bài thơ này, bao giờ người Việt Bắc cũng sợ nhịp sống hiện đại phố thị sẽ khiến người cán bộ về xuôi quên mình, quên cả nghĩa tình, cả buồn vui một thuở. Đây là nét tâm lí thường tình, một chút dỗi hờn, một chút luyến lưu, đong đầy thương nhớ:

"Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng"...

Như nghe được tiếng lòng của người ở lại, người đi cũng cảm thấy "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi", người ra đi giờ đây bâng khuâng lưu luyến như chẳng muốn rời xa:

"Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."

Trong giờ phút chia li nay, người ra đi cũng dâng trào cảm xúc, im lặng để tri âm. Lời thơ tái hiện không khí chia tay xúc động giữa người cán bộ về xuôi và đồng bào Việt Bắc. Trong không gian im ắng của núi rừng, bất chợt một "tiếng ai" thân quen từ từ ngân vang, đi sâu vào lòng mình thật trọn vẹn, đầy đủ. "Tiếng ai" vọng lại bên cồn nghe sao tha thiết quá! Chính sự hô ứng trong ngôn từ đã tạo được sự đồng vọng trong lòng người, người ra về biết bao lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời chân: "Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi.

Hình ảnh của tấm "áo chàm" – sắc áo chàm thân quen của những con người Việt Bắc đã trở thành điểm nhớ thân thương gắn bó với lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ độc đáo của nhà thơ. Cùng với "áo chàm", người ở kẻ về không nỡ rời tay, họ chỉ biết lặng lẽ "Cầm tay nhau" nhưng "biết nói gì". Nói gì đây, bởi lẽ có nói bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa thỏa lòng người bởi bấy nhiêu năm gắn bó bên nhau với bao kỉ niệm ân tình. Đoạn thơ khép lại bằng cái "cầm tay" trao truyền hơi ấm, cầm tay để hồi tưởng những tháng năm vất vả mà hào hùng, cầm tay để dặn nhau đừng bao giờ quên nhau dẫu cuộc sống có đổi thay, lòng người có thay đổi. Có lẽ vì vậy mà đoạn thơ đã khái quát trạng thái tâm lí của con người trước lúc xa nhau, lo âu, buồn tủi,... đó là điều không thể nào tránh khỏi.

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛: "𝑴𝒊̀𝒏𝒉 đ𝒊 𝒄𝒐́ 𝒏𝒉𝒐̛́ 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒂̀𝒚.......................𝑻𝒂̂𝒏 𝑻𝒓𝒂̀𝒐, 𝑯𝒐̂̀𝒏𝒈 𝑻𝒉𝒂́𝒊, 𝒎𝒂́𝒊 đ𝒊̀𝒏𝒉, 𝒄𝒂̂𝒚 đ𝒂"

Tố Hữu đã phân thân mình thành kẻ ở - người đi để hỏi và đáp – cái cớ để bộc lộ, giải bày xúc cảm, nhắc nhớ những kỉ niệm suốt chừng ấy năm "ta" với "mình" đã gắn bó bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Ở đây, Tố Hữu mượn lời của người ở lại để khơi gợi, nhắc nhớ những kỉ niệm ở Việt Bắc trong những năm Cách mạng và kháng chiến. Mỗi lời thơ đều gợi ra những nét rất tiêu biểu trong kí ức về Việt Bắc mà người ra đi sẽ không thể nào quên.

Người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh thay đổi tiếp tục cất lên tiếng nói gợi nhắc những kỉ niệm, những nghĩa tình thiết tha trong suốt "mười lăm năm ấy" cùng gắn bó, sẻ chia. Có lẽ trong giờ phút chia tay này, người ở lại có biết bao điều cần nhắn nhủ, giãi bày,... vì thế, những câu thơ trong đoạn thơ này mang hình thức của câu nghi vấn, những câu hỏi không gắn với những gì chung chung, bao quát mà rất gần gũi cụ thể. Mỗi câu đều gắn với một hình ảnh, một kỉ niệm kháng chiến nào đó như: rừng núi, măng mai, trám bùi...

Bốn câu đầu gợi nhắc những kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ, khi đó, "ta" cùng "mình" chia ngọt sẻ bùi, cùng đồng cam cộng khổ:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Trong lúc chia xa, có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn khi kỉ niệm cứ lũ lượt ùa về. Cảm xúc dâng trào bởi trong mười lăm năm ấy tình cảm giữa "ta" và "mình" được dệt nên từ những yêu thương, từ gian khổ, thiếu thốn và sự chung sức chung lòng. Nhớ Việt Bắc là nhớ nhớ về một thời kháng chiến gian khổ. Ở đó, "ta" với "mình" cùng chia sẻ những khó khăn. Thời tiết Việt Bắc đôi khi thật khắc nghiệt, dữ dội, mai này ra về làm sao người cán bộ quên được cảnh "mưa nguồn suối lũ" – những cơn mưa dầm dề, những cơn lũ dữ rầm rộ giữa đại ngàn hùng vĩ. Làm sao quên được cảnh "những mây cùng mù" – mây giăng tứ phía, sương mù dày đặc và cả cái rét ngọt thấu xương. Ở Việt Bắc, họ dằn lòng cam chịu những thử thách của thiên nhiên. Chính trong cái cảnh dữ dội của gió núi, mưa nguồn, suối lũ,... nghĩa tình quân dân thêm bền chặt, thắm thiết.

Nhớ chiến khu, những người kháng chiến làm sao quên được một thời cùng dằn lòng với "Miếng cơm chấm muối"? Đó là sự thiếu thốn về mặt lương thực, miếng cơm chấm muối đơn sơ cũng đủ để người Việt Bắc và đồng chí cán bộ no lòng. Họ cùng chung một mối thù "nặng vai" đối với bọn thực dân man rợ hung tàn. Một khởi đầu gian nan của Cách mạng, từ thuở ấy bên "ta" đã có "mình", bên "mình" đã có "ta", thử hỏi sao không chất chứa những tình cảm thiết tha, đầy lưu luyến?

Bốn câu tiếp là lời gợi nhắc về nghĩa tình sâu nặng của đồng bào đối với Cách mạng và kháng chiến:

Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.

Người về khiến núi rừng cũng trống vắng khôn khuây. Nỗi trống vắng ấy không gì khỏa lấp được trong lòng người dân Việt Bắc. Khi những người cán bộ đã về xuôi, rừng núi ngẩn ngơ thương nhớ, trám bùi chín ngọt, măng mai già nua không ai hái. Khoảng trống ấy không chỉ xuất hiện trong lòng người ở lại mà còn là khoảng trống của núi rừng, nỗi buồn của miền sơn cước khi người thương trở về thủ đô phồn hoa rực rỡ. Người Việt Bắc nghèo cực mà chân tình, rộng mở, chí nghĩa chí tình. Hình ảnh "Hắt hiu lau xám" gợi tả vùng đất tiêu sơ hoang dã, chướng khí nặng nề. Trong khung cảnh đó, sự thiếu thốn, đói khổ đó, người Việt Bắc vẫn ngời lên tấm lòng son sắt đậm đà. Tình sâu nghĩa nặng, sự đùm bọc cưu mang trọn vẹn rộng lớn của đồng bào mãi mãi là điểm sáng trong tình cảm của những người kháng chiến. Lời thơ khẳng định tấm lòng sắt son trong sáng, nhân hậu thủy chung của nhân dân VB, đồng bào VB trong cuộc CM.

Từ trong gian lao thử thách, Cách mạng đã trưởng thành. Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cái nôi của Cách mạng và kháng chiến:

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Theo dòng hồi tưởng, người ở lại nhắc về thuở ban đầu gây dựng nền móng Cách mạng. Lúc đó, Cách mạng Việt Nam vẫn còn "trứng nước", non trẻ. Về sau, "lửa thử vàng gian nan thử sức", Cách mạng Việt Nam từ đó đã đã trưởng thành, nhân dân đứng lên chiến đấu và chiến thắng, dệt nên những trang sử vàng cho dân tộc. Giọng thơ đầy sự tự hào, nỗi niềm xúc động. Một thời kháng chiến hào hùng gắn liền với những địa danh lịch sử: "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Đây là nơi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập. Nơi quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Lời thơ gợi nhớ, nhắc nhở mọi người đừng quên Việt Bắc – quê hương Cách mạng kiên cường, bền bỉ, góp phần xây dựng nền Cộng hòa cho Tổ quốc Việt Nam.

Đoạn thơ là dòng cảm xúc dâng trào trong lòng người đưa tiễn lúc chia xa. Qua đó bộc lộ nghĩa tình gắn bó sâu nặng của nhân dân Việt Bắc đối với cán bộ kháng chiến. Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là những câu thơ lục bát với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, xây dựng nhiều hình ảnh chọn lọc, có sức gợi cảm: rừng núi, măng mai, trám bùi, lau xám... Điệp từ "nhớ" trong đoạn thơ góp phần diễn tả nỗi nhớ mênh mông, da diết, làm sống dậy những kỉ niệm nghĩa tình và khơi dòng cảm xúc tuôn trào của tình kháng chiến, tình nhân dân, tình đất nước. Đoạn thơ đồng thời cũng là tình cảm, là lời nhắn nhủ người ra đi chớ nên quên Việt Bắc. Như cây có cội, như nước có nguồn, Cách mạng có lịch sử. Đó không chỉ là đạo lí Cách mạng mà còn là đạo lí của dân tộc, lẽ sống của con người. Đoạn thơ thể hiện được sự cộng hưởng trong chiều sâu tâm hồn những dòng thơ Việt Bắc.

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛: "𝑵𝒉𝒐̛́ 𝒈𝒊̀ 𝒏𝒉𝒖̛ 𝒏𝒉𝒐̛́ 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒚𝒆̂𝒖..............................𝑪𝒉𝒂̀𝒚 đ𝒆̂𝒎 𝒏𝒆̣̂𝒏 𝒄𝒐̂́𝒊 đ𝒆̂̀𝒖 đ𝒆̂̀𝒖 𝒔𝒖𝒐̂́𝒊 𝒙𝒂"

Đoạn thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của người cán bộ về xuôi với phong cảnh thiên nhiên, hình ảnh con người và sinh hoạt ở chiến khu suốt "mười lăm năm ấy".

Sáu dòng thơ đầu bộc lộ nỗi nhớ da diết về những cảnh vật đơn sơ, những sinh hoạt thường nhật, những địa danh quen thuộc ở chiến khu Việt Bắc:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Qua dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật bình dị, thật đẹp, thật thơ mộng, hiền hòa, mang đặc trưng của núi rừng Việt Bắc: Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi. Ánh nắng ban chiều lấp ló lưng nương. Cách so sánh "Nhớ gì như nhớ người yêu" càng làm cho nỗi nhớ thêm sâu sắc, thấm thía.

Cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc với những sinh hoạt quen thuộc, gần gũi của đồng bào cũng để lại một dấu ấn không phai mờ trong lòng người Cách mạng. Hoài niệm thiết tha làm sống dậy những kỉ niệm về Việt Bắc, nơi đó có những bản làng của đồng bào bồng bềnh thực hư trong sương khói, những bếp lửa hồng thấm đượm trong đêm khuya. Ở đó có bóng dáng người thương cần mẫn đi về. Những con người Việt Bắc gần gũi mà bình dị, giàu ân tình, ai ai cũng trở thành "người thương" trong nỗi nhớ của đồng chí cán bộ về xuôi.

Những tên sông, tên suối rất đỗi bình dị, thân quen gắn liền với một thời Cách mạng máu lửa cũng vang lên một lần nữa trong lòng người kháng chiến. Đó là dòng Ngòi Thia, con sông Đáy, suối Lê – những địa danh quen thuộc. Tất cả là thời gian, không gian lung linh trong kỉ niệm. Có thể nói trong nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ về xuôi khắc sâu ấn tượng về thiên nhiên Việt Bắc, chính vì thế mà thiên nhiên hiện ra với những nét đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn, thơ mộng. Gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo khác hẳn với những miền quê đẹp khác trên dải đất hình chữ S. Chỉ có những người đã từng sống ở Việt Bắc, xem Việt Bắc là thân thiết của mình mới có thể cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến vậy.

Đậm nét trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi là hình ảnh con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Việt Bắc là căn cứ địa Cách mạng, trong "mười lăm năm ấy", đồng bào Việt Bắc đã che chở, đùm bọc những người kháng chiến, sự cưu mang ấy thật trọn vẹn, rộng lớn. Xa Việt Bắc về lại Hà Thành, những người Cách mạng nhớ nhất là nghĩa tình sâu nặng của đồng bào: "Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi". "Mình" và "ta" nào có thể những "đắng cay ngọt bùi", những gian khổ khó nhọc mà cả hai cùng chịu đựng trong thời kì kháng chiến.

Những câu thơ tiếp diễn tả cụ thể nghĩa tình sâu nặng, thấm thía mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho Cách mạng:

"Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Điệu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô".

Ở chiến khu Việt Bắc, người cán bộ và đồng bào cùng sẻ chia những khó khăn, chia nhau "củ sắn lùi" đơn sơ, bình dị, cùng "sẻ nửa" bát cơm, "đắp cùng" tấm chăn trong những đêm giá lạnh. Tất cả đã lột tả sâu sắc tình quân dân gắn bó thắm thiết, ân tình của đồng bào Việt Bắc dành cho Cách mạng. Trong khó khăn, tình nghĩa càng được đậm tô.

Nhớ về nghĩa tình của những con người Việt Bắc, người ra đi hồi tưởng lại bóng dáng bà mẹ Việt Bắc tảo tần chắt chiu, lam lũ, chịu thương chịu khó. Dưới cái nắng "cháy lưng", người mẹ vẫn địu con lên nương bẻ bắp, âm thầm lao động cống hiến sức lực của mình trong công cuộc nuôi quân phục vụ cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức người ra đi.

Cuộc sống, sinh hoạt ở chiến khu Việt Bắc qua hoài niệm của tác giả hiện lên thật thanh bình, yên ả, tràn đầy niềm lạc quan:

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Sáu dòng thơ dựng lại những khung cảnh quen thương với những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt ở núi rừng Việt Bắc. Một lớp học tình thương, cán bộ dạy chữ cho người nghèo trong bản. Buổi liên hoan sáng rực ánh đuốc giữa đồng khuya. Không khí vui tươi, ấm áp, tràn đầy tinh thần lạ quan yêu đời của những người kháng chiến dù cuộc sống vẫn còn rất nhiều khó khăn, gian khổ: "Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo".

Âm thanh của tiếng ca cuộc đời vang dội khắp núi đèo. "Tiếng mõ rừng chiều" và tiếng "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, phản ánh nhịp sống, sinh hoạt, sự yên ả thanh bình miền sơn cước hữu tình.

Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ đưa người đọc về những kỉ niệm bâng khuâng. Đó là hình ảnh thân thuộc, gần gũi, thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Những con người gắn bó gần gũi, thân thương trong lòng người Cách mạng, họ là "người yêu", "người thương" trong hoài niệm. Qua đây khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê hương Cách mạng. Đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ Tố Hữu: thể thơ lục bát, cách gieo vần, ngắt nhịp làm cho đoạn thơ mang màu sắc dịu ngọt êm ái. Các biện pháp tu từ được sử dụng, hình ảnh chọn lọc, mang tính tượng trưng cao.

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝑩𝒖̛́𝒄 𝒕𝒓𝒂𝒏𝒉 𝒕𝒖̛́ 𝒃𝒊̀𝒏𝒉:

Nhà thơ đã tái hiện cảnh sắc và con người Việt Bắc qua bốn mùa thật sinh động, độc đáo. Tố Hữu chỉ gợi chứ không thiên về tả, cốt yếu là ghi lại cái hồn của thiên nhiên và phẩm chất tốt đẹp của con người trong lao động thường nhật. Đoạn thơ quả là bức tranh tứ bình nhiều gam màu, nhiều sắc thái, nhắc lại những kỉ niệm thân thiết về cảnh và người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.

Hai dòng thơ đầu, Tố Hữu đã thâu tóm cảm xúc chung của cả đoạn thơ, đó là nỗi nhớ da diết, chân tình về cảnh vật và con người nơi núi rừng Việt Bắc.

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

"mình có nhớ ta" là lời của người cán bộ về xuôi hỏi người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Kết cấu của đoạn thơ này cũng như ở toàn bào thơ là kết cấu theo lối đối đáp thường gặp trong ca dao, dân ca. Nội dung đối đáp là để bộc lộ tình cảm lưu luyến với quê hương Cách mạng. Trong nỗi nhớ của người ra đi, người ra đi bộc bạch, giãi bày nỗi nhớ da diết một cách chân thành, cụ thể: "nhớ những hoa cùng người". Như vậy, trong hoài niệm ấy cảnh vật và con người Việt Bắc hòa quyện với nhau tạo thành một thể thống nhất.

Tám dòng thơ còn lại tràn ngập ánh sáng, sắc màu, đường nét. Tố Hữu đã tạo được một bức tranh độc đáo về Việt Bắc theo chủ đề "tứ quý". Cứ câu lục tả cảnh thì câu bát tả người, nhất quán xuyên suốt tám dòng thơ.

Nhớ mùa đông Việt Bắc, người cán bộ về xuôi nhớ cảnh:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Giữa cái bạt ngàn của núi rừng xanh thẳm, hiện lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ làm cho cảnh ngày đông ấm nóng lên, sáng tươi, rực rỡ, thiên nhiên dường như sinh sôi, nảy nở giữ mùa đông rét buốt. Sự sống tuôn tràn, lòng người ấm lại. Trên cái nền cảnh ấy, hình ảnh người lao động với "dao gài thắt lưng" đi lặng lẽ trên đèo cao, càng tăng thêm vẻ sống động, đậm chất miền núi.

Mùa xuân tràn lên Việt Bắc, sắc màu đổi khác, núi rừng hiện lên với vẻ đẹp thật lãng mạn:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Cả núi rừng tràn ngập trong màu trắng tinh khôi của hoa mơ "mơ nở trắng rừng". Hai chữ "trắng rừng" diễn tả sức sống của mùa xuân, đem lại cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm cảnh. Làm đẹp cho cảnh ngày xuân còn có hình ảnh con người cần mẫn, đang lặng lẽ "chuốt từng sợi giang", đan nón – công việc nhẹ nhàng, khỏe khoắn, khoan thai,...con người là chủ nhân của mùa xuân, là người đang điểm tô cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy.

Khi Việt Bắc đã sang hè, thiên nhiên rực rỡ đã để lại ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong kí ức người kháng chiến:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Mùa hè Việt Bắc rộn rã tiếng ve ngân vang gọi hạ. Màu vàng tươi đẹp của rừng phách đang đổ lá, dưới nắng hè tạo nên những mảng màu vàng tươi chói lọi ngỡ như cả cánh rừng Việt Bắc đang "đổ vàng". Câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển, chỉ có sáu tiếng mà gợi lên cả âm thanh, ánh sáng, màu sắc, đường nét, diễn tả rất đắt sự chuyển đổi của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Hình ảnh cô gái Việt Bắc đang "hái măng một mình" trên rừng vắng làm cho bức tranh thêm phần duyên dáng, gần gũi.

Mùa thu Việt Bắc để thương, để nhớ trong lòng người kháng chiến rất đỗi ân tình:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Đêm trăng thu thanh tĩnh, dịu mát giữa rừng khuya, êm đềm, hiền hòa như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó vang lên thật ấm lòng, làm tăng vẻ thi vị, hấp dẫn của cảnh, trở thành bức tranh kỉ niệm không thể nào phai nhòa trong kí ức của người ra đi.

Nhà thơ gợi tả thành công vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp thi vị, độc đáo. Gắn bó với khung cảnh thiên nhiên là vẻ đẹp của con người bình dị, khỏe khoắn, làm chủ núi rừng. Họ cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động và thủy chung trong nghĩa tình. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé ấy đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân đối với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui... Tất cả đã làm cho Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ.

Tóm lại, cảnh thiên nhiên Việt Bắc qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được tái hiện ở cả 4 mùa với màu sắc và vẻ đẹp khác nhau: Mùa đông tươi tắn, ấm áp; Mùa xuân trong sáng, tinh khôi; Mùa hè rực rỡ, sôi động; Mùa thu lãng mạn, yên ả, thanh bình. Con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp: cần cù, chăm chỉ, ân tình, luôn là chủ thể trong bức tranh. Con người và cảnh vật hòa quyện, gắn bó với nhau. m điệu thơ ngọt ngào, tha thiết, cách xưng hô mình – ta gần gũi, quen thuộc.

Đây là đoạn thơ hay của bài thơ, thể hiện rất rõ phong cách thơ Tố Hữu. Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: thiên nhiên đẹp, con người đẹp, tấm lòng đẹp. Đó là sức cuốn hút, chinh phục của đoạn thơ cũng như của cả bài thơ "Việt Bắc".

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛: "𝑵𝒉𝒐̛́ 𝒌𝒉𝒊 𝒈𝒊𝒂̣̆𝒄 đ𝒆̂́𝒏 𝒈𝒊𝒂̣̆𝒄 𝒍𝒖̀𝒏𝒈..........................𝑵𝒉𝒐̛́ 𝒕𝒖̛̀ 𝑪𝒂𝒐 – 𝑳𝒂̣𝒏𝒈, 𝒏𝒉𝒐̛́ 𝒔𝒂𝒏𝒈 𝑵𝒉𝒊̣ 𝑯𝒂̀"

Nếu âm hưởng bao trùm trong các đoạn thơ trước là ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng như lời ru, vỗ về con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm thì đoạn thơ này khắc họa cuộc sống, chiến đấu nơi Việt Bắc lại mang âm hưởng mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi. Hình ảnh thơ hoành tráng, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng "Đất nước đứng lên" như sống dậy trong mỗi câu thơ. Cả con người và thiên nhiên đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù.

Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về thiên nhiên Việt Bắc và con người miền núi trong chiến đấu, qua đó bộc lộ niềm tự hào của tác giả về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.

Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, lời thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu hào hùng trong không gian núi rừng rộng lớn:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Câu thơ "Nhớ khi giặc đến giặc lùng" nhắc lại một thời điểm không thể nào quên trong "mười lăm năm ấy". Những ngày lực lượng Cách mạng ta còn non yếu, quân giặc lùng sục bắt bớ, không từ một tội ác nào để đàn áp nhân dân, bóp chết Cách mạng của ta khi còn trong "trứng nước". Quân dân Việt Bắc đã quật khởi chiến đấu, cả núi rừng chung sức cùng con người "đánh Tây". Nhân dân Việt Bắc, bộ đội, dân công, rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống giặc. Từ lúc "giặc đến giặc lùng" đến khi "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây" là cả bước trưởng thành của Cách mạng, lời thơ chan chứa niềm tự hào của con người dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ.

Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, mù mịt của núi rừng, khơi dậy sức sống mạnh mẽ của con người và thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên đã góp phần to lớn vào cuộc kháng chiến.

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Vẫn là "rừng cây, núi đá" vô tri ấy thôi nhưng giờ đây, dường như chúng không còn là thứ thiên nhiên vô tri, vô giác nữa mà chúng chuyển mình, vận động trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, cũng đứng lên, cầm vũ khí chiến đấu. Những dãy núi trùng điệp đã trở thành thàng lũy kiên cố, ngăn chặn quân thù, rừng chở che cho bộ đội, rừng bao vây quân thù. Thiên nhiên đã trở thành người chiến sĩ nhờ vào hình ảnh nhân hóa đầy ấn tượng: "Núi giăng- Rừng che- Rừng vây".

Một lần nữa, Tố Hữu nhấn mạnh tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân dân Việt Bắc, chung sức, chung lòng vì cuộc kháng chiến:

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

Thiên nhiên Việt Bắc chìm đắm trong làn sương mù hư thực, như chở che cho quân ta, cản lối quân thù. Câu thơ "Đất trời ta cả chiến khu một lòng" nhấn mạnh tinh thần đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, tất cả cùng hướng về cuộc chiến đấu chung, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương, đất nước.

Người ra đi nhớ về những địa danh Việt Bắc gắn liền với những chiến công vang dội:

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng

Nhớ từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

Lời hỏi "Ai về ai có nhớ không?" là hỏi chính lòng mình. Hỏi là cái cớ để khẳng định "Ta về, ta nhớ", người cán bộ về xuôi làm sao quên được những trận đánh, những chiến công đáng tự hào ấy. Chính sức mạnh làm nên chiến công, làm nức lòng nhân dân. Mỗi địa danh gắn liền với một sự kiện trọng đại của đất nước.

Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về Việt Bắc, là niềm tự hào của tác giả về Việt Bắc anh hùng, kiên cường, về mảnh đất "Địa linh nhân kiệt". Bên cạnh đó, đoạn thơ cũng mang đậm phong cách thơ Tố Hữu: thể thơ lục bát, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, phép tu từ nhân hóa, điệp từ... được sử dụng triệt để.

* Đ𝒐𝒂̣𝒏 𝒕𝒉𝒐̛: "𝑵𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 đ𝒖̛𝒐̛̀𝒏𝒈 𝑽𝒊𝒆̣̂𝒕 𝑩𝒂̆́𝒄 𝒄𝒖̉𝒂 𝒕𝒂.................. 𝑽𝒖𝒊 𝒍𝒆̂𝒏 𝑽𝒊𝒆̣̂𝒕 𝑩𝒂̆́𝒄, Đ𝒆̀𝒐 𝑫𝒆, 𝒏𝒖́𝒊 𝑯𝒐̂̀𝒏𝒈"

Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã phác hoạ chân thật bức toàn cảnh lịch sử hoành tráng một thời như một sử gia tài giỏi đầy mẫn cảm. Với cảm hứng lịch sử mãnh liệt như ngọn lửa luôn thắp đỏ tâm hồn, Tố Hữu đã cảm nhận cuộc đời một cách hết sức thấm thía và sâu sắc trong mọi diễn biến của tiến trình hiện thực. Bằng ngòi bút đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu – dấu ấn đậm nét không thể nào phai nhòa trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi. Đoạn thơ trên mang âm hưởng anh hùng ca, phác họa hình tượng "Đất nước đứng lên", Tổ quốc hiên ngang trong bom đạn quân thù.

Trước hết, Tố Hữu đã phác họa bức tranh toàn cảnh quân và dân ta ra trận chiến đấu với khí thế hào hùng, sôi nổi, khẩn trương:

"Những đường Việt Bắc của ta - Đêm đêm rầm rập như là đất rung".

Hai dòng thơ gợi ra không gian rộng lớn (những đường Việt Bắc), thời gian đằng đẵng (đêm đêm) của cuộc chiến đấu vĩ đại, trường kì. Khí thế xung trận được cảm nhận bằng từ láy tượng thanh "rầm rập"- bước bước chân mạnh mẽ, rắn chắc nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của một số lượng người đông đảo cùng hành quân một hướng. Tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển cả đất trời. Hình ảnh so sánh cường điệu: "Đêm đêm rầm rập như là đất rung" nêu bật sức mạnh đoàn kết của quân và dân ta, quyết tâm chiến đấu, bảo vệ độc lập tự do. Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng và khí thế hào hùng, có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian khổ, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường, chung sức, chung lòng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Hai câu tiếp miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội ta hành quân ra mặt trận, vừa hào hùng, vừa lãng mạn:

"Quân đi điệp điệp trùng trùng - Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".

Từ láy "điệp điệp trùng trùng" đã khắc họa đoàn quânđông đảo, bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, đọt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài đến tận chân trời. Hình ảnh "ánh sao đầu súng" vừa là hình ảnh tả thực trong đêm tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ: ánh sao của lí tưởng chỉ đường dẫn lối cho chiến sĩ đánh đuổi quân thù.

Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến của toàn dân, nhân dân hăng hái góp sức. Trên núi rừng Việt Bắc đêm khuya, cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công tiếp lương, tải đạn:

"Dân công đỏ đuốc từng đoàn- Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay".

Những bó đuốc đỏ rực soi đường đã làm bật lên hình ảnh dân công tiếp lương, tải đạn, đảm bảo sức mạnh vật chất cho bộ đội ta chiến đấu và chiến thắng. Hình ảnh cường điệu: "bước chân nát đá" khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến là của toàn dân, của cả dân tộc, chiến đấu vì chính nghĩa, vì thế ta nhất định thắng.

Trước sức mạnh và khí thế ấy, cả núi rừng bừng tỉnh. Hai câu thơ tiếp khẳng định niềm lạc quan, tin tưởng về cuộc kháng chiến sẽ đi tới thắng lợi:

"Nghìn đêm thăm thẳm sương dày- Đèn pha bật sáng như ngày mai lên".

Hai câu thơ tạo được sự tương quan giữ ánh sáng và bóng tối, ánh đèn pha rực sáng của ô tô kép pháo xuyên thủng màn đêm dày đặc, xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng. Hình ảnh thơ còn có ý nghĩa tượng trưng, câu thơ khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm, gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách nô lệ của kẻ thù, câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào một xu thế tất thắng, tương lai tươi sáng của dân tộc. Câu thơ được viết bằng cảm hứng lãng mạn bay bổng, dựng lên một hình tượng "Đất nước đứng lên" (tên một tác phẩm của Nguyên Ngọc).

-Bốn dòng thơ sau cùng nói tới những tin thắng trận từ mọi nơi dồn dập về chiến khu Việt Bắc, niềm vui chiến thắng, niềm tự hào dân tộc.

"Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"

Nhịp thơ dồn dập, vui tươi, náo nức, phấn khởi, mỗi địa danh là một nốt nhạc vui trong bản hùng ca chiến thắng. Niềm vui chiến thắng của ta không chỉ gặt hái được những chiến công ở Việt Bắc, quân và ta còn làm nên niềm vui chiến thắng "trăm miền", từ Tây Nam Bộ, Tây Nguyên cho tới Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên,... Các từ "vui về", "vui từ", "vui lên" đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi tin vui, khẳng định vị trí của Việt Bắc, của quê hương Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến.

Nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ: Thể thơ lục bát nhịp điệu uyển chuyển vừa trầm hùng vừa tha thiết; Biện pháp so sánh, ẩn dụ thể hiện hình ảnh đoàn quân ra trận mạnh mẽ, phi thường; Hình ảnh, địa danh gần gũi, chân thực gợi những kỉ niệm sâu sắc.

3. 𝑴𝒐̣̂𝒕 𝒗𝒂̀𝒊 𝒌𝒊𝒆̂́𝒏 𝒕𝒉𝒖̛́𝒄 𝒅𝒖̀𝒏𝒈 đ𝒆̂̉ 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒏 𝒙𝒆́𝒕:

- Về tác giả, phong cách: Trong đội ngũ các thi sĩ của nền thơ Cách mạng Việt Nam, Tố Hữu là người viết sử bằng thơ sớm và đầy đủ nhất. Ông được ca ngợi là nhà biên niên sử, là người ghi lại trung thành những bước đường lịch sử hiện đại: "Khi dân tộc nhịp bước cùng thời đại". Trong thơ Tố Hữu, có những dấu vết nóng bỏng của thời đại – của ba dòng thác cách mạng, của lịch sử dân tộc với những chặng đường lớn, nhỏ qua các thời kỳ cách mạng. Đặc trưng trong phong cách thơ Tố Hữu là tính trữ tình – chính trị sâu sắc; thơ mang đậm chất sử thi; giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, chan chứa yêu thương như những làn điệu dân ca êm đềm xứ Huế và mang đậm tính dân tộc, truyền thống.

- Về tính dân tộc: Tố Hữu là người con xứ Huế thơ mộng với giọng hò khoan thai, da diết mà trĩu nặng ân tình: "Huế ơi, quê mẹ của ta ơi! - Nhớ tự ngày xưa thuở chín mười - Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng - Mưa nguồn, gió biển, nắng xa khơi", từ nhỏ đã được mẹ hát ru bằng điệu hò xứ Huế. Huế- "quê mẹ" thân yêu trong lòng thi sĩ. âm điệu thơ Tố Hữu đậm đà hương vị dân tộc: ngọt ngào, tha thiết, mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc trong thơ Tố Hữu ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Nhà thơ giàu từ ngữ và luôn am hiểu sâu sắc luật thơ tiếng Việt. Tính dân tộc đậm đà, hương vị dân tộc đã phản phất trong nhiều bài thơ của Tố Hữu.

...

🌱 III. KẾT BÀI:

...

Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.




Bài làm chuyên sâu nâng cao mở rộng HSG đoạn bức tranh tứ bình trích "Việt Bắc" Tố Hữu .

                                                                                 BL

Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ-là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp con người luôn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phá của những tình cảm mãnh liệt.

Ta tìm đến với một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu ở từng lời thơ, câu chữ vả cả cái tôi tài tình, giọng điệu tài hoa hay cả đến sự sáng tạo bậc thầy. Trong số những thi sĩ từng mến yêu thì Tố Hữu là một nhà thơ như thế.

Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.

"Việt Bắc" được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình trong bức tranh tứ bình:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve keo rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân-tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Bàn về thơ, Chenier đã từng nói: Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới là thi sĩ. Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Nằm trong quy luật ấy, những năm đầu thế kỷ XX, những nhà thơ Mới đương thời ảnh hưởng mạnh mẽ thơ ca lãng mạn phương Tây, của Rimbaud, Verlaine...thì Tố Hữu lặng lẽ tìm về với những vần thơ lục bát của dân tộc. Chính điều này đã tạo nên một thi sĩ Tố Hữu riêng biệt, độc đáo, chính trị mà rất trữ tình.

Xuyên suốt bài thơ "Việt Bắc" là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người "nặng nợ" ân tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy. Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của núi rừng này.

Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật-"ta về mình có nhớ ta". Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô "mình-ta" ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. "Ta" chỉ người đi, "mình" chỉ người ở lại. "Ta-mình" còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu lứa đôi: "Mình về ta chẳng cho về-Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ" hay "Mình về mình nhớ ta chăng-Ta về ta nhớ hàm răng mình cười". Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ nhân xưng "mình-ta" cũng như sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát nhuần nhuyễn trong điệu lối đối đáp trữ tình. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của "ta" và "mình" đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình, chuyện cách dễ dàng đi vào lòng người, gây nhung nhớ, chạm đến trái tim.

Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định: "Ta về ta nhớ những hoa cùng người". Hai câu thơ đầy ắp những "ta", "mình", những "mình nhớ", "ta nhớ" kết hợp điệp từ "ta" với âm "a" (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ "những hoa cùng người". "Hoa" là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. "Hoa" cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: Trong tâm hồn người ra đi thì ký ức còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn "Người" là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây. Chữ "cùng" trong "nhớ những hoa cùng người" rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.

Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong từng lời thơ con chữ. Bởi "Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ" thì "Việt Bắc" của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời "thủ đô kháng chiến", thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng kẻ ở-người đi, hình bóng của núi rừng, con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả.

Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống. Vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được đan cài, hòa quyện vào vẻ đẹp của con người Việt Bắc trong lao động và sản xuất. Trong đoạn thơ, cứ 1 câu lục tả cảnh là một câu bát tả người, thiên nhiên và con người đã hòa nhập, tỏa sáng bức tranh thơ.Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca gói trọn bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hoà nhất. Mỗi bức tranh gồm hai mảng: Một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người, sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Núi rừng Việt Bắc bao trùm một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già-màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống. Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là có sự điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi"-gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp khoẻ khoắn của người. "Nắng ánh dao gài thắt lưng" là hình ảnh của người dân miền sơn cước. Cách doán dụ không phải tình cớ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng, vật bất ly thân của người miền núi, nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ của núi rừng. Hình ảnh "dao gài thắt lưng" là vẻ đẹp của con người trong tư thế đang đứng trên đỉnh đèo, ánh sáng mặt trời chói vào lưỡi dao lóe sáng. Đây là vẻ đẹp của sự vững chãi, tự tin, làm chủ núi rừng của con người Việt Bắc-họ đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn nữa cho cuộc kháng chiến. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất-"đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Có thể nói rằng: Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ-Đặng Thai Mai. Bởi thế thơ chính trị đã được thơ Tố Hữu đưa lên đến độ rất đỗi trữ tình, song hành với những biến cố, sự kiện trọng đại của dân tộc. Sự kết hợp sáng tạo ấy rất nhẹ nhàng, sâu lắng, tinh tế, cứ thế thấm vào lòng người bằng ý, bằng tình, bằng cảm xúc của 15 năm gắn bó nghĩa tình.

Với người nghệ sĩ thì thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt cay đắng. Thơ là cây đàn muôn điệu gảy lên những cung bậc cảm xúc của con người, là biểu hiện cho những tình cảm thầm kín, hồn nhiên nhất. Như Tố Hữu từng nói: Bài thơ hay là bài thơ làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người, quên rằng nó là tiếng nói của ai, người ta chỉ còn cảm thấy nó như tiếng ca cách lên từ lòng mình như là của mình vậy. Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả.

Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của thiên nhiên mùa xuân ở Việt Bắc.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". Cụm từ "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

("Theo chân Bác")

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

("Hoan hô chiến sĩ Điện Biên")

Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan toả khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ nổi bật "người đan nón". Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết "chuốt từng sợi giang". Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn mùa trong năm. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của nùi rừng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người.

Trong nốt ngân vang trong trẻo, tràn sức sống đó, mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: Cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Dường như bao nhiêu yêu thương, đợi chờ, mong ngóng họ đang gửi vào sợi nhớ, sợi thương để dệt nên những vành nón nghĩa tình gửi ra cho cán bộ, dân công ngoài mặt trận.

Hai câu thơ mùa xuân khơi dậy những cảm xúc thẩm mỹ tuyệt đẹp trong hoài niệm dìu dặt, nhắc người cán bộ bịn rịn về xuôi. Ai đó đã nói rằng: "Thơ hay phải có dư vị văn chương". Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy "dư vị" của nó.

Khi xưa, phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Còn Tố Hữu cũng đã từng khẳng định: "Thơ là chuyện đồng điệu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, là tiếng nói đồng chí". Phải chăng nỗi nhớ, sự gắn bó keo sơn, máu thịt suốt 15 năm kháng chiến đã họa quyện thành lời, thành thơ rưng rưng trong Việt Bắc.

Sau vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc ở mùa xuân là bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: Tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ "đổ" đ­ược dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển sang màu vàng. Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của Khương Hữu Dụng: "một tiếng chim kêu sáng cả rừng". Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim. Động từ "đổ" được Tố Hữu dùng rất tinh tế và chính xác để diễn tả sự chuyển biến mau lẹ của sắc màu. Cũng giống như từ "đổ" trong câu thơ của Xuân Diệu: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá".

Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hai chữ "một mình" giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: "Trúc xinh trúc mọc đầu đình-em xinh em đứng một mình cũng xinh". Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương yêu.

Chuyện cách mạng, chính trị qua cách thể thơ, lối đối đáp "mình-ta" nó trở nên ngọt ngào, trữ tình quá đỗi thực sự là một sự thành công lớn trong sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu. Đúng như Xuân Diệu đã khẳng định: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình, vì vậy, Tố Hữu xứng đáng là thi sĩ của nhân dân, là "Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam".

Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu "Việt Bắc" thơ bằng chính rung động của mình trước cuộc chia tay, trước những hoài niệm của những năm tháng gian khổ, hào hùng không thể nào quên với đồng bào Việt Bắc. Đó chính là cốt lõi của sức mạnh thơ Tố Hữu trong những ngày nói với trái tim, nói với chính mình.

Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về.

Không gian chuyển về đêm như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng nhẹ nhàng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên sự huyền ảo, khung cảnh gợi hồn thơ. Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng trở thành "tiếng hát ân tình thuỷ chung".

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: Những câu thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong thơ cổ điển.

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành giống như cuộc chia tay của "ta" và "mình", của anh-em, đôi lứa...Việt Bắc là bài thơ có tính dân tộc đậm đà, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, dễ ngâm, dễ hát, thấm đượm ở đề tài, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm của nhân vật trữ tình ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc.

"Việt Bắc" là khúc ân tình chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua tiếng lòng của tác giả. Cái chung hoà trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung. Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, tình nghĩa với đất nước, với nhân dân và cách mạng. Thông qua nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc, tác giả khẳng định lòng biết ơn, lòng thủy chung sắc son của người cán bộ kháng chiến đối với nghĩa tình sâu nặng của quê hương và con người Việt Bắc.

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình-nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Tố Hữu mãi mãi trường tồn.

-----------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Net