Truyen30h.Net

Tài Liệu Văn Nghị Luận Xã Hội Và Lí Luận Văn Học

Văn 12: Vợ chồng A Phủ

DPPhuongdinh

Mình lượm lại được bài này từ docs, nó hơi nham nhở vì mình làm mất bản chỉnh sửa đầy đủ rồi, mọi người chịu khó xem nhé:

Mở bài - cách dẫn vào đề mình hay dùng:

"Nhà văn ở trên đời trước hết để làm những công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người bị cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận dồn đến góc chân tường, nhà văn ở trên đời để bênh vực cho những người không có ai để bênh vực". Với hình tượng Mị trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã thực sự hoàn thành được sứ mệnh ấy khi mang đến cho bạn đọc một hình tượng nhân vật với biết bao vẻ đẹp, nhất là sức sống mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân qua đoạn trích "..."

Tô Hoài là nhà văn luôn cố gắng đi tìm sự thực trong đời sống để phả vào trang viết,  ông quan niệm phải nói lên sự thật dù có đập vỡ thần tượng trong lòng bạn đọc. Chính vì thế mà các trang văn của ông luôn thấm đẫm chất hiện thực, nhưng bằng vốn ngôn ngữ phong phú, cách diễn đạt tinh tế, hóm hỉnh mà bạn đọc yêu mến các trang văn của Tô Hoài. Năm 1952, Tô Hoài có dịp đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc, tại đây ông có dịp sống và gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số nên đã để lại cho ông nhiều kỷ niệm. Tất cả những yếu tố đó cùng một tài năng tuyệt vời đã thôi thúc Tô Hoài viết tập "Truyện Tây Bắc", "Vợ chồng A Phủ" được rút từ tập truyện ấy.

Nhân vật Mị được giới thiệu từ giữa cuộc đời đi ra. Mở đầu, Tô Hoài đưa bạn đọc đến với thế giới của truyện cổ tích, tìm về miền núi xa xôi Tây Bắc. Dừng chân tại nhà thống lí Pá Tra giàu có nhất vùng là hình ảnh người thiếu phụ ngồi cạnh tảng đá, mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Lội ngược dòng trở về quá khứ, Mị là con gái nhà nông nghèo. Vì món nợ truyền kiếp mà số phận đưa đẩy Mị làm con dâu gạt nợ nhà thống lí, sống một cuộc đời cùng cực, tăm tối, ngày cũng như đêm. Nhưng trái tim nhân đạo của Tô Hoài không cho phép nhân vật mà mình yêu mến, đồng cảm chết một cách tàn lụi, tội nghiệp. Ông vẫn đốt cháy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mị. Như hòn than hồng âm ỉ cháy, chỉ chờ luồng gió mát thổi bùng lên. Và cuối cùng luồng gió ấy cũng đến - đêm tình mùa xuân.

Những đêm trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ có bếp sưởi làm bạn, mỗi đêm Mị dậy thổi lửa không biết bao nhiêu lần, mặc cho có bị A Sử bắt gặp, đạp Mị ngã lăn ra nền cửa. Mị trở nên tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Dù có bị chà đạp, lăng nhục nhưng Mị vẫn dửng dưng, chẳng chút tức giận hay sợ hãi, bởi lẽ "Sống trong cái khổ, Mị quen rồi". Ngọn lửa đối với người con gái ấy đã không chỉ là công cụ sưởi ấm về da thịt, mà nó còn là người bạn tri âm, tri kỷ ủ ấm tâm hồn Mị trong những tháng ngày đầy chai sạn. Nói theo cách lý giải của Tô Hoài, ấy là phần vô thức của con người "Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị. Dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo, không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng"

Và khi ánh lửa bập bùng lên thì cũng là lúc Mị nhìn thấy gương mặt người nô lệ - A Phủ. Anh cũng là nạn nhân của thần quyền và cường quyền như Mị, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà cha con nhà thống lí đã trói đứng anh ở đây. Mọi sự thê thảm của anh, Mị đều chứng kiến hết. Thế nhưng sau từng ấy năm bị bào mòn, tâm hồn của người con gái ấy đã trở nên chai lì , đến chính bản thân mình còn thờ ơ, vô cảm thì nói gì đến những người xung quanh? Mị chẳng cần biết và cũng chẳng thèm đoái hoài đến mọi thứ "Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng ở đấy cũng thế thôi."

TỔNG QUAN:

* Hoàn cảnh sáng tác.
Tô Hoài là nhà văn luôn cố gắng đi tìm sự thật trong đời sống để phản ánh vào tác phẩm. Nhà văn quan niệm phải nói lên sự thật dù có đập vỡ thần tượng trong lòng bạn đọc. Chính vì thế các trang văn của ông thấm đẫm chất hiện thực nhưng bằng vốn ngôn ngữ phong phú và lối diễn đạt tinh tế, hóm hỉnh mà độc giả yêu mến các trang văn của Tô Hoài. Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số ( Thái, Mường, Mông, Dao ...) nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi. Tất cả những yếu tố trên và với một tài năng tuyệt vời đã thôi thúc Tô Hoài viết tập "Truyện Tây Bắc", "Vợ chồng A Phủ" được trích từ tập truyện ấy.

* Cách giới thiệu nhân vật
Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy và cách giới thiệu có vấn đề, nhà văn đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Không đơn thuần là sự miêu tả hoàn cảnh và tính cách nhân vật như ta thường gặp mà có một điều gì như đặc biệt, như đổi mới ở đây. Khung cảnh đầu truyện cũng chính là khung nền mà Mị xuất hiện. Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cũng trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Không phải ngẫu nhiên mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cô cũng là một con người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui. Những chi tiết đắt giá làm nổi hình sắc nhân vật. Con người LẪN VÀO với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cô cũng buồn rười rượi. Mâu thuẫn nảy sinh để ai cũng phải băn khoăn một câu hỏi: vì sao con gái một nhà giàu như nhà thống lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy người đọc muốn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật, và nhà văn cũng có cái cớ để kể lại cuộc đời, số phận của nhân vật Mị. Đây là một cách mở truyện khá thành công, hấp dẫn của Tô Hoài.

Kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ không dựng theo trình tự thời gian. Cũng như Nam Cao lựa chọn giới thiệu nhân vật Chí Phèo khi nhân vật đã bị tha hóa, lưu manh hóa thì Mị cũng đến với bạn đọc khi cô về làm dâu nhà thống lí, khi sức sống của cô đã bị vùi dập. Vậy là giá trị tố cáo thông qua hình tượng nhân vật đã xuất hiện ngay trang văn đầu tiên của truyện. Từ đó tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xuyên suốt cuộc đời nhân vật để làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dòng thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật.

a, Trước khi về làm dâu
Mị được coi là một cô gái với nhiều đức tính tốt. Là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha mẹ .

Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con gái. Mị xinh đẹp "những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị". Mị có tài thổi sáo khiến "bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị" .... Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.

Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì bản chất của một người lao động không mất đi trong con người Mị - một cô gái của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ:"bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố". Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà làm nương trả nợ. Nhưng cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị.

Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ toàn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi ấy.

b, Mới về làm dâu.
Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai, nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu - Mị như chết đứng với số phận từ đây. Tô Hoài phải thật sự am hiểu về phong tục tập quán của người dân miền núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là đêm cuối cùng Mị còn tự do với tình yêu trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là đêm bắt đầu cho những chuỗi ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà thống lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào bàn tay có đeo nhẫn ở đúng ngón tay mà người yêu Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu để cho Mị nhấc tấm vách gỗ bước ra với người yêu. Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" sang hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu.

* Sự phản kháng của Mị khi mới về làm dâu.
1. Về nhà thống lý Pá Tra, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau "có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc". Giọt nước mắt của nhân vật Mị chính là sự phản kháng đối với thực tại. Sự phản kháng ở cấp độ thấp nhưng cũng đủ để thấy Mị không thỏa hiệp, đầu hàng chấp nhận số phận. Bởi trong người con gái ấy khao khát tự do chưa thể lụi tàn.

2. Những tháng ngày sống trong nhà Pá Tra, Mị không thể thỏa hiệp với nó. Mị sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống không đáng sống. Đây là cấp độ phản kháng cao hơn để khẳng định khao khát sống đang bùng cháy trong cô. Bởi khi còn muốn chết tức là con người ta còn ý thức được về một cuộc sống không đáng sống của mình, và còn khao khát được sống. Một điều tưởng chừng như phi lí nhưng lại nằm trong quy luật tâm lí tự nhiên của con người. Mị quyết định vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về qùy lạy bố để chết. Có lẽ để có đủ dũng cảm cầm nắm lá ngón trên tay Mị đã phải băn khoăn, trăn trở rất nhiều. Ai chẳng hiểu sự sống là đáng quý bởi cuộc đời ai sinh ra cũng chỉ được sống một lần, nên khao khát sống chính đáng là điều ai cũng mong muốn. Mị đã dám từ bỏ cuộc đời khi đang xuân thì phải chăng cuộc đời Mị không còn ý nghĩa. Hành động này của Mị là một lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến miền núi, đã đè nén, áp bức đẩy con người ta đến bước đường cùng. Trong Mị thấp thoáng số phận của những chị Dậu, những anh Pha, những Chí Phèo – người nông trước cách mạng tháng Tám.

Tưởng dứt hết nợ duyên với đời để tìm đến cái chết nhưng vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Vậy ra, trong cô gái trẻ kia, mạng sống, tình yêu, và tự do không phải là thứ cô đặt lên hàng đầu. Bên tình và bên hiếu trong giờ phút quyết định khiến cô phải lựa chọn và tất nhiên cô cũng như bao người con gái khác sẵn sàng:
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Mị đã coi việc làm dâu trong nhà thống lý Pá Tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa, làm tròn chữ hiếu. Đây chính là phẩm chất đáng quý, đáng ngợi ca của nhân vật mà Tô Hoài đã tìm thấy nơi đáy sâu cùng cực của số phận.

c, Khi làm dâu đã quen.
* Sự tê liệt trong tâm hồn Mị.
Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì "Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (...) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Cách so sánh bằng đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri, vô giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một công cụ lao động của nhà thống lí, không có chút quyền tự do nào. Mị chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp...Còn nỗi đau nào của một kiếp người mà phải mang thân trâu ngựa: « con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày ». Sự so sánh đòn bẩy cho thấy Mị còn không bằng cả kiếp trâu ngựa. Người đọc không chỉ ngậm ngùi, xót thương cho thân phận tủi cực của Mị mà cả những người phụ nữ miền núi trong xã hội xưa.

Thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần - thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ "thuốc phiện tinh thần ». Bởi nó tạo thành một lối mòn trong suy nghĩ của Mị : đã bị bắt về nhà Pá Tra, đã cúng trình ma nhà nó rồi thì cả đời sống ở nhà này, và chết cũng là ma nhà này mà thôi. Mị đã không còn  phản kháng để tìm lối thoát cho mình. Điều này xét về một góc độ nào đó, nếu nhìn về mặt đấu tranh giai cấp, thì nó còn nguy hại hơn là sự áp bức về thể xác.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa" thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, "đến bao giờ chết thì thôi". Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ mọi buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi còn trẻ đó là căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là căn buồng đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười ngày, khi nuôi con bế bồng với bao tin yêu, hi vọng...Tưởng như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp nhưng với Mị thì không. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngoài lúc nào cũng thấy « mờ mờ, trắng trắng không biết là sương hay là nắng ». Người đọc có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức sống trong người con gái đầy xuân xanh.

Khi một "nạn nhân" đau khổ, còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn khao khát sống. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cô đã dường như phó mặc thân phận cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai. Một con người sống mà chỉ như tồn tại, không có một ý niệm nào về cuộc sống. Có lẽ đây là bản án đanh thép mà nhà văn đã gửi đến cho xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời - bóp nghẹt sức sống của con người.

* Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân về. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
- Những nhân tố tác động làm bùng lên sức sống của nhân vật.

1. Thiên nhiên đầy đột biến ở Hồng mùa Ngài xuân ấy như một dự báo.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Một năm với tiết xuân mới: các nương ngô, nương lúa đã thu hoạch xong. Trẻ con đi chăn trâu tinh nghịch đốt những mái lều canh nương để lửa khói sáng trắng trên nương. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Cái rét đến sớm và dữ dội, công việc cũng đã xong và năm ấy Hồng Ngài ăn tết sớm. Sự đột biến của thiên nhiên của mùa xuân năm ấy liệu có báo hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị, con người vẫn đang trong tuổi xuân và đầy sức xuân trong mình ?

2. Rượu.
Đêm tình mùa xuân, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu "Mị uống ực từng bát rồi say". Cách uống rượu của Mị như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa. Mị đã hồi sinh! Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có lẽ chúng ta không thể cảm nhận và phân tích những nét tâm lí ấy bằng lí trí của một người tỉnh táo mà phải là sự chếch choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế của nhân vật, «không phải người viết mà là thần viết».

3. Tiếng sáo.
Mùa xuân năm ấy với Mị không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu". Chính thanh âm quen thuộc ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức đẹp tươi. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị ngày nào. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với hiện tại buồn mênh mang. Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi còn xa Mị cảm thấy « lấp ló» ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn để rồi nghe thấy «thiết tha bổi hổi» Mị nghe rõ và nhẩm được cả lời của bài hát. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Ngay sau đó là một câu văn ngắn gọn, chắc nịch : «Những đêm tình mùa xuân đã tới». Mùa xuân mới, sự bùng trỗi dậy của sức sống, của những khao khát và đổi thay của đất trời, vạn vật. Phải chăng với Mị điều đó cũng đang đến gần.
* Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Sự xuất hiện cũng như tác động đồng thời của cả ba tác nhân có thể ví như một làn gió đã thổi tan lớp tro tàn nguội lạnh trong tâm hồn Mị và khơi lên hơi ấm mà hòn than của sức sống vốn bị vùi chôn nơi sâu kín nhất trong tâm hồn. Để rồi dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật.

1. Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang « văng vẳng gọi bạn đầu làng », Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng ấy: "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh hiện tại này của Mị thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao con tim ấy đã vui trở lại.

2. Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử - kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau". Cảm xúc ấy như gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu gom góp. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Vậy là hơn một lần Mị tìm đến cái chết nhưng lần này thì sự hồi sinh trong con người tưởng như đã chết với tâm hồn, tư tưởng nhưng không phải. Sức sống ấy bỗng dưng ùa về, làm cô khao khát hơn bao giờ hết kiếp sống đáng sống, sống đúng với nghĩa của một con người. Đây phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật.

3. Không có lá ngón trong tay, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Không phải bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Nhà văn diễn tả thật sâu sắc khát vọng cháy bỏng của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu sự cảm thông. Câu văn ngắn, nhịp văn mạnh mẽ thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật "Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi sức sống trong con người ấy đang trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị, mà A Sử chính là kẻ đại diện. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị.

4. Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống với tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn cô. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh mẽ. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình mùa xuân. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi", mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi năm nào: « Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào ? ». Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn "Mị vùng bước đi". Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi "tay chân đau không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa"- hiện thực khắc nghiệt của thực tại đè nặng làm cho Mị không thể sống với thế giới mộng tưởng của mình được. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Rất tài tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. Có một chi tiết lại xuất hiện như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi sinh thực sự. Chi tiết này có lẽ Tô Hoài đã bắt gặp Nam Cao, bởi các nhân vật của Nam Cao cũng có những giọt nước mắt của sự bừng tỉnh : Hộ khóc, Chí Phèo khóc, Thứ khóc... Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mị khóc nhưng rồi « Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi ». Câu văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái khi tỉnh khi mê. Cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh.
*** Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Vậy là sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành bão táp của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

=> Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị đã có cơ hội đánh thức sau bao ngày bị vùi chôn trong đọa đày. Nó đủ kéo Mị ra khỏi vỏ bọc của một con rùa rụt cổ, của một cái bóng vô hồn, của một vật vô tri vô giác trong nhà Pá Tra. Thậm chí là đủ để cho nhân vật có thể phản kháng với thực tại, cho dừ sự phản kháng ấy còn yếu ớt. Nhưng nó là tín hiệu dự báo sự đột phá của nhân vật trong cuộc vùng dậy cởi trói cho A Phủ và giải thoát chính bản thân, tìm sự sống cho mình.

- Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ.
@ A Phủ
A Phủ cũng là nạn nhân của việc cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây.

@ Mị với hiện tại
Đêm tình mùa xuân, như cơn gió thoảng qua đời Mị, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống trâu ngựa tại nhà thống lí - vô hồn, vô cảm. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Thậm chí nếu A Phủ là cái xác chết ở đó thì Mị vẫn như vậy mà thôi, vẫn dậy sưởi lửa mà như không hay. Phải chăng "Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Bởi khi con người ta không còn biết thương đến bản thân mình thì không thể yêu thương người khác được.

@ Nhân tố tác động làm bừng tỉnh Mị.
Đã mấy ngày A Phủ bị trói đứng ở cột: chịu đau, chịu đói, chịu rét nhưng không một tiếng kêu nài, van xin. Chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", dấu hiệu của thần chết đã xuất hiện trên khuôn mặt người nô lệ ấy, thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Nhưng không phải nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ mà Mị đã cảm thương con người này, đó là cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp trong Mị mà Tô Hoài đã miêu tả thật tinh tế.

@ Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ.
Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người.

B1 : Khi nhìn thấy dòng nước mắt ấy «lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại», Mị chợt nhớ ngay lại đêm năm trước A Sử cũng trói đứng Mị như vậy và cô thấy thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được».

B2 : Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận "chúng nó thật độc ác". Mị nhận ra kẻ gieo rắc nỗi khổ. Chúng nó - cha con thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế lực phong kiến miền núi chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Nhớ đến những chuyện ngày trước, Mị lại trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi".

B3 : Khi không tìm được lối thoát cho mình nhưng trong Mị tình người đã trỗi dậy, bởi đồng cảnh ngộ nên Mị hiểu nỗi khổ mà A Phủ đang phải gánh chịu, thậm chí là đang đối mặt, cận kề với cái chết nên Mị không thể làm ngơ. Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùng lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.

B4 : Khi lòng thương, tình yêu đủ lớn nó sẽ có sức mạnh để áp đảo mọi thế lực, thậm chí là đánh đổi cả mạng sống của mình cho người khác. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những con người nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một cuộc cách mạng tất yếu.

B5 : Giây phút đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối, rối bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Khi đã cứu được người, A Phủ đã được tự do, được sống thì cũng là lúc tình thương người trong Mị hoàn thành bổn phận. Giờ đây chỉ còn lại mình Mị với số phận đã an bài và một cái chết đang chờ đón. Khi con người ta đang đứng giữa ranh giới mà sự sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy. Mị hành động theo bản năng tất yếu. Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy ra..Mị băng đi...như đi tìm sự sống và tự do cho chính mình. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ bao năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất". Có lẽ chưa bao giờ niềm khao khát sống và khát khao tự do đến với Mị mãnh liệt như lúc này. Hành động cắt dây trói cho A Phủ nhưng cũng chính Mị tự tay cắt đứt bao sợi dây của cường quyền, thần quyền đã trói buộc mình. Tiếng gọi tự do đang vẫy chào họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục trong quá vãng.

* Ý nghĩa hành động Mị cắt dây trói cho A Phủ.
    Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo A Phủ. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Hành động này đã được dự báo, dự đoán trong quá khứ khi Mị khóc lúc mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị hừng hực sức sống trong mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho A Phủ. Giải cứu A Phủ là Mị giải cứu chính mình. Sức sống mãnh liệt của người con gái ấy vượt lên trên cả cường quyền, thần quyền thậm chí là chấp nhận cả cái chết để đánh đổi một cuộc sống đáng sống, và được sống là chính mình. Hành động này là biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của nhân vật Mị mà tác giả Tô Hoài đã dày công phân tích đầy logic và thuyết phục.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
=>  Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là yếu tố không nhỏ để khơi lên sức sống tiềm tàng của Mị. Đó cũng chính là tinh thần nhân văn của tác phẩm mà Tô Hoài gửi gắm.

3. KB.
Qua hình tượng nhân vật Mị, điều Tô Hoài muốn nhắn nhủ chính là sức sống mãnh liệt của người con gái ấy. Không một thế lực nào có thể dập tắt nó, thậm chí nếu càng đè nén, càng áp bức thì đến một lúc nào đó nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Đồng thời nhà văn cũng ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc Mèo xinh đẹp, tài hoa và hiếu thảo. Vẻ đẹp chân chất, giản dị như những bông hoa ban nơi núi rừng Tây Bắc để lại thương nhớ nhiều không chỉ cho nhà văn mà còn để thương để nhớ cho bạn đọc mãi mãi về sau.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
Backtin từng cho rằng: Chỉ khi lặn sâu vào những nỗi đời nhiều buồn đau, bất hạnh, nhà văn mới tìm ra "chất người trong con người", mới thắp lên được những "khát vọng được sống, được vươn lên làm người" của con người. Trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ", nhà văn Tô Hoài trước hết đã đứng ở cuối những con đường cùng mà nâng đỡ nhân vật của mình, phản ánh những nỗi bất hạnh, những niềm đớn đau của họ bằng những trang văn thấm đẫm nước mắt. Con người đẹp mà không được hưởng hạnh phúc, tự do, ấy chính là định mệnh đau xót của những Mị, những A Phủ trong thiên truyện này của tác giả. Nhưng bên cạnh đó, cũng qua hai nhân vật này, nhà văn đã bày tỏ tấm lòng nhân đạo đầy trắc ẩn đối với những nhân vật yêu mến của mình.
Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là kết quả chuyến đi tám tháng trong năm 1952 của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc cùng sống với đồng bào các dân tộc". Đây vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.

Mị vốn là một cô gái H'mông xinh đẹp, nết na, Mị có tài thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo.Cô như bông hoa rừng ngát hương làm say đắm bao chàng trai nhưng chỉ vì một món nợ truyền kiếp Mị trở thành dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá tra. Cô bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn trở thành con trâu con ngựa trong nhà thống lý. Thậm chí còn khổ hơn cả kiếp đời trâu, ngựa. "Vì con trâu con ngựa làm còn có lúc đêm đến nó còn được đứng nhai cỏ hoặc gãi chân chứ đời người đàn bà con gái trong nhà thống lý thì làm việc không kể ngày đêm". Không những bị bóc lột sức lao động, Mị còn bị đánh đập hành hạ thật tàn nhẫn, ngày Tết Mị không được đi chơi còn bị A Sử trói đứng trong buồng tối.

Cùng với sự đày đọa về thể xác, Mị còn bị chà đạp về tinh thần. Bị áp bức quá nặng nề, người con gái giàu sức sống khi nào giờ đây trở thành người phụ nữ cam chịu. Dưới ngòi bút của Tô Hoài căn buồng Mị ở được miêu tả như một ngục thất nó làm Mị mất khái niệm về thời gian không gian. Mị suốt ngày lầm lũi như con ma nuôi trong xó cửa. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen rồi Mị tưởng mình là con trâu con ngựa trong nhà thống lý, Mị trở thành công cụ lao động biết nói mà không dám nói.

Cũng giống như Mị, A Phủ mang số phận của một nông nô miền núi.
A Phủ vốn là một chàng trai mồ côi tuy khỏe mạnh nhưng nghèo nên không lấy được vợ. A Phủ vốn là chàng trai của núi rừng tự do không chỉ khỏe chạy nhanh như ngựa mà còn có tài trồng trọt săn bắn, biết đúc lưỡi cày lưỡi cuốc bẫy hổ săn bò tót rất bạo. Chỉ vì A Phủ đánh con quan để bảo vệ cuộc vui xuân của trai bản mà anh bị bắt về đánh phạt vạ. Ả Phủ bị hành hạ một cách nhục hình cởi trần quỳ để chịu đòn, trong khi bọn thống trị ăn chơi phè phỡn. Vì nó không có tiền nộp phạt A Phủ đã bị biến thành kẻ đi ở không công với lời nguyền độc địa của thống lý Pá Tra lúc trình ma: "Đời mà đời con mày tao cùng bắt thế nếu không trả hết nợ". Cũng như Mị, A Phu bỊ cường quyền, thần quyền tước đoạt ÚI cả sức sống. Một chàng trai như A Phủ mà tự đi đào lỗ chôn cọc, tự đi lấy dây trói lấy cọc về để thống lý Pá tra trói buộc mình để đợi ngày chết khô chết héo thật đúng là nhân vật con người bị xúc phạm tính mạng con người vô cùng rẻ mạt, khi A Phủ trở thành vật thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.

Có thể nói Mị và A Phủ là hiện thân những đau khổ của người dân miền núi trước cách mạng và qua số phận họ là bức tranh về đời sống tăm tối đến nghẹt thở của nhiều người lao động bị áp bức.

Với "Vợ chồng A Phủ" Tô Hoài còn phản ánh một hiện thực cơ bản trong xã hội hiện thực lúc bấy giờ. Đó là sự vùng lên đấu tranh, là nguyện vọng hướng tới cách mạng của người dân lao động nghèo khổ. Qua số phận Mị và A Phủ từ khi trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, nhà văn đã phản ánh quá trình đấu tranh từ tự phát đến tự giác của người dân miền núi. Lúc đầu vì bị áp bức quá nặng nề mà Mị và A Phủ chạy trốn cái chết nhưng sau đó lại đến với cách mạng. Đó là sự vùng lên đấu tranh là nguyện vọng hướng tới Cách mạng của người dân lao động nghèo khổ.

Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện "Vợ chồng A Phủ" còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Những nội dung cơ bản nhất làm nến giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học đều có trong "Vợ chồng A Phủ". Niềm thương cảm sâu sắc đối với con người, sự lên án tố cáo nhiều thế lực tàn bạo, đặc biệt là sự khẳng định ngợi ca sức sống tiềm tàng sức mạnh vùng lên giải phóng và những khát vọng chân chính của con người, sự hướng tới những giải pháp mang tinh thần nhân đạo.

Tuy nhiên giá trị nhân đạo cơ bản của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã phát hiện khẳng định ngợi ca sức sống tiềm tàng và sức mạnh vùng lên giải phóng của những người lao động bị áp bức. Mị và A Phủ là hiện thân của sức sống tiềm tàng không gì dập tắt nổi. Ở Mị có hai mặt tưởng chừng như đối lập nhưng lại thống nhất trong một tính cách, một mặt bị áp bức nặng nề Mị trở nên cam chịu mặt khác ở Mị vẫn tưng bừng một khát vọng sống. Mị không phải là cây nến leo lét đợi ngày tàn lụi. Mị như bếp than hồng âm ỉ dưới lớp tro tàn chỉ đợi ngày bùng lên thành lửa ngọn.

Cô không chấp nhận cuộc sống nô lệ nên đã định tìm đến cái chết để giải thoát. Cách uống rượu của Mị chứa đựng sự phản kháng cô cứ uống ừng ực từng bát một. Cô uống rượu mà như nuốt hờn nuốt tủi, như nén giận vào lòng như để rạo rực men say tuổi trẻ của một thời đã qua. Và trong đêm tình mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn thì sức sống tiềm tàng của Mị đã vùng lên dữ dội trong cả khát vọng hạnh phúc cũng như trong tình huống bi thảm nhất.
Ngày Tết Mị không được đi chơi, bị giam trong buồng tối khi nghe tiếng sáo gọi bạn thì tiếng sáo đã làm thức tỉnh con người tâm linh trong Mị, đưa cô từ cõi quên về cõi nhớ. Mị nhớ lại thân phận làm dâu gạt nợ đắng cay và Mị nhớ cả về quá khứ tươi đẹp hạnh phúc. Nhớ lại những ngày chưa làm dâu gạt nợ trẻ trung, xinh đẹp, nết na, Mị lại càng khao khát hạnh phúc trong hiện tại, cô muốn thoát khỏi căn buồng chật hẹp tăm tối. Mị với chiếc váy hoa chuẩn bị đi chơi, Mị thôi làm "con rùa lầm lũi nơi xó cửa", Mị muốn làm cánh chim tung bay giữa bầu trời tự do để chào đón mùa xuân.

Việc A Sử trói Mị chỉ làm dồn lại nhựa sống mùa xuân trong Mị, mặc dù bị trói tâm hồn cô vẫn hướng theo tiếng sáo đến với cuộc chơi xuân. Mị vùng bước đi mặc dù chân tay đau không cựa được A Sử có thể giam Mị giữa ngày xuân chứ không giam được sức sống mùa xuân trong Mị.

Ở A Phủ cũng tiềm tàng một sức sống sức mạnh phản kháng khi bị đánh phạt vạ trước những trận đòn dã man, A Phủ vẫn im lìm như cái tượng đá. Thái độ ấy tư thế ấy là sự chất chứa hờ 1 căm là sự bất phục, bất tuân thầm lặng nhưng quyết liệt, khi bị trói A Phủ tìm cách thoát, không thoát được thì trong đôi mắt A Phủ không chỉ có giọt lệ chảy xuống gò má sạm đen mà từ đôi mắt trừng trừng ấy còn bập bùng hai ngọn lửa sống hay đốm sáng của khát vọng, hy vọng. Lúc được Mị cởi trói, A Phủ khuỵu xuống vì kiệt sức nhưng sau đó lại quật sức vùng lên chạy không chỉ là chạy trốn cái chết mà còn tìm đến con đường giải phóng.

A Phủ và Mị là hiện thân của sức mạnh vùng lên giải phóng "tháo cũi sổ lồng". Sức mạnh ấy kết tụ lại trong hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ trong một đêm mùa đông. Lúc đầu là sự đồng cảm với người cùng cảnh ngộ sau đó là ý thức về sự giải thoát Mị cứu A Phủ đồng thời là tự cứu bản thân mình. A Phủ bị trói là hiện hình cái chết của Mị trong tương lai. Mị giải thoát cho A Phủ cũng có nghĩa là cô đã xóa đi hình ảnh cái chết của mình trong tương lai. Với hành động cứu A Phủ và tự cứu cùng một lúc Mị đã bước qua hai ngục tù cường quyền và thần quyền.

Mị đã tự giải thoát khỏi ách áp bức nô lệ của chế độ phong kiến tàn bạo, dã man. Sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã trỗi dậy. Tuổi trẻ, sức xuân, tình yêu đã chiến thắng bạo tàn. Khi sắc xuân đã đầy ắp trong vườn thì một bông hạnh chìa ra ngoài tường nở là điều tất nhiên:
"Xuân sắc mãn viên quan bất trú
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai"
(Du viên bất trị - Chơi vườn không được vào)

Sức sống tiềm tàng của Mị của A Phủ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng, bếp than hồng sau bao ngày âm ỉ dưới lớp tro tàn giờ đây đã bùng lên thành lửa ngọn, ngọn lửa ấy không chỉ sưởi ấm cho cuộc đời Mị và A Phủ mà còn soi rọi ánh sáng hạnh phúc trên con đường đi tới tương lai của họ.

Là tác phẩm của nền văn học cách mạng, giá trị nhân đạo của "Vợ chồng A Phủ" được nâng lên một tầm cao so với văn học hiện thực phê phán trước đó. Nếu văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng chủ yếu thể hiện nhu cầu khát vọng hạnh phúc, khát vọng giải phóng con người thì văn học cách mạng còn khẳng định khả năng con người có thể thực hiện những nhu cầu những khát vọng ấy.

Nếu điểm mạnh của văn học hiện thực phê phán là ở sự mổ xẻ phân tích lý giải hiện thực thì văn học cách mạng không chỉ lý giải mà còn góp phần cải tạo hiện thực. Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài trong một đêm mùa đông giá lạnh của cuộc đời để đến với một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc. Trốn khỏi Hồng Ngài tới Phiềng Sa là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị và A Phủ từ thân phận nô lệ họ đã trở thành chủ nhân của cuộc đời từ "thung lũng đau thương" họ đã ra tới "cánh đồng vui".

Với giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo với thành công trong việc xây dựng nhân vật để thể hiện tư tưởng nội dung tác phẩm như đã phân tích ở trên thì truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" xứng đáng nhận giải nhất về văn xuôi văn học kháng chiến chống Pháp.
Một tác phẩm văn học có giá trị là một bức tranh chân thực về đời sống và ý nghĩa thực sự của nó là góp phần nhân đạo hóa con người. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy.
Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" đã từng được dựng thành phim. Từ địa hạt văn học "Vợ chồng A Phủ" đã bước sang cả lĩnh vực điện ảnh điều đó chứng tỏ ngoài giá trị văn chương tác phẩm này còn có tác dụng xã hội thiết thực nó góp phần vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Một chính sách mang tinh thần nhân đạo và cách mạng: giải phóng những người lao động bị áp bức bóc lột, giải phóng sức sống bị các thế lực tàn bạo dã man trói buộc vì hạnh phúc và sự phát triển của các đồng bào dân tộc miền núi để người miền núi cũng như người miền xuôi, người thiểu số cũng như người Kinh đều hòa nhập trong đại giai đoạn các dân tộc Việt Nam.

Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói "khổ từ trong trúng". Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ chyền sang Mị, thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu "gạt nợ".Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của ngươi Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn mình là con nguời nữa. Suốt ngày "Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", lúc nào cũng cúi mặt, thế giói của Mị thu hẹp trong một cái ỗ cửa sổ "mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng". Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: "Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi", cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: "Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi". Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đọi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi "Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình". (Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lý nơm nớp sợ "Con ma nhà thống lí" đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về "Cúng trình ma" là một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật "ngu dân" để dễ trị.

Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đúng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi Tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.

Những chi tiết như vậy làm cho bức tranh hiện thực nới rộng thêm dung lượng và linh động thêm. Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biển động chính như cuộc đời Mị. Lý do mà thống lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng, vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gở nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là ngưòi con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.

Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, những chú AQ và những thím Tường Lâm... Đó là nhũng hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.

Nhưng nếu nói giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ mà chỉ phân tích ở khía cạnh phơi bày, tố cáo, phê phán thông qua những cảnh ngộ bi thảm của người dân lao động là chưa đủ. Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc vẫn đưọc xem như có hạn chế trong tầm nhìn và bởi thế, giá trị hiện thực sẽ không được toàn vẹn. Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết Vợ chồng A Phủ sau Cách mạng tháng Tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân thật chân lí đơn giản ấy.

Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Đây mới thật sự là một giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hoá nhân cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải "quen", phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ tới bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa. Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc, ước ao. Liệu cô có thể thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời:  Nếu đã có một hoàn cành làm tê liệt tâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cảnh nào đây? Phép mầu nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay. Là tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng "thiết tha bồi hồi" và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, "gọi bạn yêu" nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lại động chính cái súc mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ "mình vẫn còn trẻ lắm", rằng "bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân". Và bên tai Mị cứ "lững lờ" tiếng sáo. Sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: "Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy". Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi choi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả họp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự "vượt rào" của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này se lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy "lấp lánh" trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: "người kia việc gì phải chết?" Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt đây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!

Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh Sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chín chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn.

Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phù đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông khi miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.
Thật ra cũng khó tách bạch đâu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo ở một tác phẩm như Vợ chồng A Phù. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hòa trộn với nhau. Không thể không nói đến tỉnh chân thật, chính xác, logic ở những đoạn mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Thật khó quên hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì người cha đã biết: "Mày về quỳ lạy tao để mày chết đấy à? Không được đâu con ơi". Mị ném nắm lá ngón xuống đất, quay trở lại chốn địa ngục trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết để khỏi sống khổ nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khồ nhục hơn là bất hiếu với cha. Chính Mị, khi còn trẻ đã biết xin bố: "con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu". Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống. Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bàng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp MỊ tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người.

Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Net