Truyen30h.Net

Thiên hạ kỳ duyên [Cảm hứng lịch sử, cung đấu, báo thù] -Ánh Tuyết Triều Dương

Chương 36: Nỗi hận Lệ Chi (4)

AnhTuyetTrieuDuong

Ngày 16 tháng 8 năm 1442, tức mười hai ngày sau khi vua Lê Thái Tông băng, án trảm tội thần giết vua được thi hành.

Đó là một buổi sáng mùa thu đầy ám ảnh. Trên trời, mây xám cuồn cuộn vần vũ, khiến cho bầu trời phân chia thành từng mảng sáng tối loang lổ; dưới đất, gió cuốn cát bụi cuộn thành từng xoáy tròn rồi lặng lẽ biến mất ở góc khuất cuối đường; thi thoảng đâu đó vọng lại một tiếng sấm khan; không gian ngột ngạt, bí bách đến cùng cực.

Hàng trăm người nhà Nguyễn Trãi đã bị giải ra pháp trường từ rất sớm. Thậm chí đến tận bây giờ, nhiều người trong số họ vẫn ngơ ngác không hiểu vì sao oan nghiệt ấy lại giáng xuống đầu mình. Xung quang pháp trường đông nghịt người. Gần như tất cả dân chúng thành Đông Kinh đều đổ ra đây. Tất cả mọi người đều muốn được tận mắt chứng kiến buổi hành quyết đẫm máu nhất trong lịch sử. Trong đám đông vô cùng vô tận ấy, kẻ hả hê, người lại băn khoăn, không muốn tin Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi cùng người thiếp của mình lại là hung thủ giết vua.

Đảo mắt nhìn quanh, Nguyễn Trãi không thấy hai người thiếp khác của mình đâu. Có người nói họ đã bị triều đình giết hại, có kẻ lại nói họ đã trốn đi, còn thực hư ra sao, Nguyễn Trãi chôn chân trong hình lao, thực sự không có cách nào biết đích xác.

Lại một tiếng sấm khan vọng đến. Nguyễn Trãi quỳ trên đài cao, tiếc hận nhìn xuống già trẻ lớn bé trong họ tộc, dù không muốn khóc nhưng khóe mắt vẫn cay xè.

Nửa canh giờ nữa lại trôi qua. Ngồi trên ghế giám trảm, Lê Lăng cao hứng mân mê trảm lệnh trong tay.

"Ức Trai à Ức Trai..." Giọng Lê Lăng cao ngạo cất lên."Trung thần ngươi không muốn làm, lại cứ nhất quyết đi làm nghịch thần. Hôm nay phải tiễn ngươi lên đường, ta đây cũng thấy tiếc..."

Không rảnh để cự cãi với Lê Lăng, Nguyễn Trãi quay mặt đi. Lê Lăng hơi cụt hứng nhưng chỉ một giây sau, lão miễn cưỡng ngồi thẳng dậy, nhanh chóng lấy lại mặt mũi cần có của một quan giám trảm.

Pháp trường vẫn văng vẳng tiếng con trẻ khóc thút thít. Nguyễn Trãi không đành lòng nhưng cuối cùng vẫn phải nạt nhẹ một câu:

"Khóc cái gì! Người họ Nguyễn chúng ta không có tội, dù chết cũng phải chết trong tư thế ngẩng cao đầu!"

Sự can trường của Nguyễn Trãi khiến những người cùng chịu án chém hôm ấy như tìm lại được dũng khí. Chẳng ai bảo ai, mọi người đồng loạt ngẩng cao đầu, tiếng khóc thút thít không còn, nỗi sợ hãi biến mất, thậm chí có những người mà trong mắt họ chỉ còn lại sự bình thản đến lạ kì.

Một chiếc lá vàng rơi xuống, đậu ngay trước mặt Nguyễn Trãi. Ông bất giác ngước nhìn lên, vẻ mặt đang yên ả đột nhiên trở nên thất thần khi thấy bóng hình ấy đứng lẫn trong dòng người hỗn độn.

...

Đứng lẫn trong dòng người hỗn độn, người thiếu phụ trẻ tuổi ấy khẽ đưa tay lên miệng để chặn lại tiếng nấc nghẹn. Vì sợ có người nhận ra mình, bà chỉ dám mặc một bộ quần áo nông phu đã sờn rách, tự làm bản thân lem nhem bẩn thỉu, còn gương mặt khắc khổ thì giấu sâu dưới chiếc khăn trùm đầu. Bà đứng đó, bất lực hướng về phía pháp trường, miệng lẩm nhẩm như thể muốn nói điều đấy với Nguyễn Trãi.

Lão gia, thiếp phải làm gì để cứu ngài đây?

Giây phút bóng hình người thiếu phụ ấy lọt vào tầm mắt, Nguyễn Trãi chợt run rẩy cả tâm can.

...

Mặc kệ sự phản đối của Nguyễn Trãi, người thiếu phụ vẫn len lỏi qua dòng người, càng lúc càng tiến sát về phía pháp trường hơn. Đột nhiên, từ đâu đó trong dòng người, một bàn tay vươn tới, kín đáo đặt lên vai người thiếu phụ. Bà giật mình quay đầu lại, chỉ thấy Nguyễn Đức Trung đang lắc đầu với mình.

Mười chín năm trước, Nguyễn Đức Trung vẫn chỉ là một võ quan tứ phẩm của triều đình.

"Đừng làm điều dại dột nữa!" Nguyễn Đức Trung hạ giọng khuyên bảo người thiếu phụ. "Bà Mẫn đã rời khỏi kinh thành rồi. Vì hương hỏa nhà họ Nguyễn, phu nhân cũng nhất định phải sống tiếp."

Người thiếu phụ ấy như tỉnh ngộ. Bà không tiến thêm một bước nào nữa, chỉ đành chua xót nhìn Nguyễn Trãi, đến lúc này mới thấy ông mỉm cười với mình.

...

Thành Đông Kinh hôm ấy, mọi người vẫn nhớ như in lời tuyên bố lẫm liệt của nghịch thần giết vua.

"Ức Trai ta trung quân ái quốc, sống không thẹn với trời đất và thiên hạ! Ngày hôm nay ta gánh phải oan nghiệt, nguyện ôm nỗi tiếc hận xuống dưới suối vàng, nhưng trong các bậc minh quân hậu thế, nhất định sẽ có người thay ta giải nỗi oan tình này, để cho máu của chúng ta ngày hôm nay không đổ vô ích, để cho lòng thiên hạ muôn đời sau được thấu tỏ chính tà!"

Lịch sử chưa bao giờ diễn ra cảnh tượng kì lạ như thế. Hàng ngàn người vốn dĩ chỉ đến vì tò mò, giờ bất giác khoé mắt đều rưng rưng.

Sợ dân tình nổi loạn, Lê Lăng không dông dài nữa, thẳng tay vứt trảm lệnh xuống đất. Hàng loạt nhát đao nhất tề vung lên. Người thiếu phụ kia chỉ kịp hét lên một tiếng rồi ngất lịm.

Chân trời vẫn đì đùng vọng lại tiếng sấm khan.

Những người chứng kiến vụ hành hình hôm ấy đều ngậm ngùi kể lại rằng, chỉ trong thoáng chốc, bầu trời Đông Kinh bỗng trở nên vô cùng quỷ dị, mây xám chuyển thành màu đỏ, gió gào thét như dã quỷ, mặt trời bị bóng tối nhất chìm, mưa từ mọi ngả trút xuống, hòa lẫn cùng máu tươi, xối thành một dòng đỏ thẫm.

Nhân tâm nghẹn ngào. Đất trời như cũng nổi cơn thịnh nộ, khiến cuồng phong bão tố vẫn vũ mãi không thôi...

...

Phủ Tĩnh Gia, Thanh Hoa, năm năm sau thảm án Lệ Chi Viên.

Vì sợ mọi người biết được thân thế thực sự của con trai, bà Mẫn đành phải lấy họ Phạm của mình để đặt cho Anh Vũ. Cứ như thế, hai mẹ con tìm về một vùng quê hẻo lánh, nương tựa vào nhau, rau cháo thanh đạm mà sống qua ngày.

Một ngày nọ, cậu bé Vũ trở về nhà trong bộ dạng lem luốc, bầm dập. Vừa trông thấy bà Mẫn đang giặt quần áo ngoài giếng, cậu liền sà vào lòng mẹ, thổn thức:

"Mẹ ơi, bọn trẻ trong làng bắt nạt con, chúng nó mắng con là đứa con hoang."

Chua xót ôm chặt con trai vào lòng, bà Mẫn âu yếm hôn lên trán cậu bé:

"Con không phải con hoang. Con có cha, hơn nữa cha con còn là một người vô cùng đáng kính..."

"Vậy cha con đâu? Khi nào thì cha mới về thăm con hả mẹ?" Cậu bé Vũ ngơ ngác hỏi lại.

Một giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy guộc của người thiếu phụ ấy. Rồi cứ thế, hai mắt bà đã nhòe đi từ lúc nào.

Bỗng nhiên thấy mẹ mình bật khóc, Vũ lo lắng rướn đầu lên. Trong thế giới của cậu, mẹ là tất cả, mẹ mà khóc, cậu cũng sẽ đau lòng.

Ngày ấy, Phạm Anh Vũ còn quá nhỏ để định nghĩa được nỗi tang thương trong mắt mẹ mình mỗi khi nhắc đến người cha bí ẩn ấy.

Lại hai năm nữa trôi qua, Phạm Anh Vũ đã lớn thêm một chút, nhưng cậu cũng không nhắc đến cha mình trước mặt mẹ nữa.

Thực ra bà Mẫn từ lâu đã như ngọn đèn trước gió, gắng gượng được bảy năm đều là vì Phạm Anh Vũ. Nhưng khi bọn cướp Đỗ Hải tràn vào thôn Dự Quần và lấy đi chiếc vòng ngọc lục bảo, bà Mẫn bị tên tướng cướp đả thương, kể từ đó nằm liệt giường, không dậy nổi nữa. Biết bản thân không thể qua khỏi, trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà Mẫn mới gọi con trai đến bên giường và kể lại mọi chuyện...

...

Anh Vũ, con chính là con trai của Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi, người bị triều đình kết tội giết vua bảy năm trước. Hàng trăm mạng người nhà họ Nguyễn đều bị oan khuất mà chết. Sau này lớn lên, con nhất định phải thay chúng ta trả mối thù của gia tộc, trừng trị những kẻ gây ra thảm án năm đó, để cho người trong thiên hạ hiểu được chính tà, có như vậy, cha mẹ ở dưới suối vàng mới có thể nhắm mắt xuôi tay!

Không thể chờ đến ngày oan tình được giải, bà Mẫn ra đi trong tiếc hận, trên khóe môi còn vương một nụ cười chua chát. Trong túp lều lụp xụp, ngọn nến đã lụi tàn từ lúc nào, vách tường chỉ còn vương lại một bóng hình cô độc của cậu bé bảy tuổi, nghẹn ngào quỳ bên di thể đang dần lạnh ngắt của mẹ mình...

...

Sau khi bà Mẫn mất ít lâu, một người đàn ông lạ mặt tìm đến thôn Dự Quần. Ông là gia nô trước kia từng hầu hạ trong nhà họ Nguyễn. Chính ông đã liều mạng dẫn bà Mẫn trốn khỏi thành Đông Kinh. Dọc đường bị quân lính truy bắt, hai người họ thất lạc đôi ngả, đến tận bảy năm sau, người gia nô trung thành ấy mới tìm lại được Phạm Anh Vũ.

Lão Bản trao cho Phạm Anh Vũ thanh bảo kiếm của dòng họ rồi dẫn y rời xa thôn Dự Quần, bái danh sư học võ nghệ, cốt để sau này y có thể thực hiện được di nguyện của bà Mẫn, báo thù rửa hận cho hàng trăm người đã chết oan dưới bản án nghiệt ngã của triều đình.

...

Trong một sơn cốc cách thiền viện Trúc Lâm Yên Tử không xa, có một thiếu niên đang miệt mài luyện kiếm. Núi Yên Tử vốn là nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông tu hành, là chốn thanh tu cửa Phật, tất nhiên không thích hợp để xuất hiện đao kiếm, nhưng có vẻ thiếu niên này không quá quan tâm tới những sự cố kị ấy mà chỉ dồn toàn lực vào việc luyện tập. Thanh bảo kiếm trong tay y không ngừng xoay chuyển, vung lên hạ xuống chớp nhoáng, uy lực phát ra cũng vì thế mà thâm sâu khôn lường.

Chỉ trong chớp mắt, Phạm Anh Vũ đã lao vút lên cao rồi thuận đà chém xuống cây trúc trước mặt. Nhìn theo bóng trúc đổ ngả nghiêng, ánh mắt y vẫn lạnh như băng, chỉ có sự hận thù là không thể che giấu.

...

Đã lâu lắm rồi, Phạm Anh Vũ mới lại mở lòng mình với một người xa lạ. Nhưng y cũng hiểu rằng ở đất nước này, tên của cha mình vẫn là một điều tối kị. Bởi vậy, thảm án lẫy lừng năm đó, qua lời kể của y đã biến thành một vụ án oan vô danh của mình cha y. Trong câu chuyện của mình, y chưa một lần nhắc đến ba chữ Lệ Chi viên!

Một cách vô thức, Hoàng Lan nắm lấy tay Phạm Anh Vũ. Y ngưng thần và quay lại nhìn.

"Xin lỗi, anh đã muốn chôn sâu quá khứ đau buồn ấy, vậy mà tôi lại gợi nhắc nó lên." 

Khóe mắt Hoàng Lan cay cay, rồi giọng nàng lạc hẳn đi.

Kể từ khi lạc đến thời đại này, nàng chỉ khóc đúng ba lần.

Lần đầu tiên, đứng trước chân tình của mọi người trong Phượng Tú uyển, nàng đã không kìm được nước mắt.

Lần thứ hai, Lâm Vũ Linh bị Phùng Diệm Quỳnh đánh gãy một bàn tay.

Lần thứ ba, ở nhà Lê Thụ, lúc ôm thi thể lạnh ngắt của Mai Hương vào lòng, nàng đã khóc.

Và giờ phút này, khi nghe kể về quá khứ của Phạm Anh Vũ, trong tâm khảm Hoàng Lan lại xuất hiện một cảm giác đồng cảm khó hiểu. Nó cứ không ngừng dâng lên, giày vò và ám ảnh, như thể nỗi đau ấy cũng chính là một phần máu thịt của nàng vậy.

Và rồi, Hoàng Lan bật khóc như một đứa trẻ.

Có gì đó hơi ngược đời, nhưng cuối cùng, kẻ phải đi an ủi người khác lại là Phạm Anh Vũ. Y vươn tay ra, lặng lẽ kéo Hoàng Lan dựa vào vai mình. Ban đầu Hoàng Lan còn định né tránh, nhưng rồi, cảm giác thân thiết trong tiềm thức đã khiến nàng ngoan ngoãn dựa vào người y. Cứ như thế, hai người họ ngồi bên bờ suối, trước mặt là đỉnh núi Thúy đang dần chuyển sang màu tím thẫm, sau lưng là Viên Diệp cư ngút ngàn, Phạm Anh Vũ che chở cho Hoàng Lan, còn Hoàng Lan thì vùi đầu vào vai y mà khóc ngon lành. Người ngoài nhìn vào có thể suy nghĩ vẩn vơ, nhưng cả hai người họ đều biết rằng trái tim mình không hề vì đối phương mà đập loạn nhịp. Giữa họ chỉ đơn thuần là đồng cảm và sẻ chia, không phải sự luyến ái nam nữ thông thường.

Nếu Hoàng Lan không hiểu tại sao nàng lại dễ dàng xúc động như vậy, thì Phạm Anh Vũ cũng không hiểu vì sao y dễ dàng tin tưởng nàng đến thế. Chỉ biết rằng, mỗi khi nhìn vào mắt Hoàng Lan, y như nhìn thấy bóng hình xa xôi của một cố nhân nào đó đến từ dĩ vãng... (2)

...

Chú thích:

(1) Đại Bảo. Niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ năm 1440 đến năm 1442.

(2) Vụ án Lệ Chi viên. Năm 1442, vua Lê Thái Tông đến Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi, trên đường trở về có dừng chân tại vườn vải thuộc huyện Gia Định (nay thuộc Bắc Ninh). Ở đây, Ngài thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà. Triều đình nhanh chóng khép Nguyễn Trãi vào tội giết vua và tru di ba họ. Án trảm được diễn ra khá vội vàng, chỉ mười hai ngày sau khi Thái Tông băng. Sử sách gọi đây là vụ án Lệ Chi viên, vụ án để lại nhiều nghi vấn vào bậc nhất lịch sử phong kiến Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Net